Các điểm cân bằng, hiệu quả và tối ưu này có nhiều nét tương đồng với Các
chiến lược ổn định tiến hóa trong thuyết tiến hóa, theo đó, khi một chiến
lược đã được một tập hợp các cá nhân chấp nhận chắc chắn nó sẽ đánh bại
những chiến lược thay thế. Trong thí dụ về loài gấu trúc, cách tước lá trúc
khỏi cành bằng đoạn xương cổ tay biến đổi đã được chọn – mặc dù đây chỉ
là thiết kế dưới mức tối ưu, nó vẫn hiệu quả hơn việc sửa lại cả bàn tay chỉ
để giúp một ngón tay cái tiến hóa. Ngón tay cái của loài gấu trúc chính là
một chiến lược ổn định tiến hóa. Bàn phím QWERTY cũng là một chiến
lược như vậy.
Năm 1873, Christopher Latham Shole bán bản quyền bằng sáng chế máy
đánh chữ, trong đó có cả bàn phím QWERTY, cho hãng E. Remington &
Sons. Năm 1882, Viện tốc kí và máy chữ được L. V. Longley thành lập tại
Cincinnati. Dù có vô số cách sắp xếp bàn phím khác nhau, bà đã chọn hệ
thống QWERTY. Chương trình đánh máy của bà ngày càng thành công,
phương pháp giảng dạy của bà được chấp nhận rộng rãi và trở thành tiêu
chuẩn công nghiệp, thậm chí hãng Remington còn đưa nó vào chương trình
học tại những trường dạy đánh máy mới mở. Sau đó, vào năm 1888, một
cuộc thi đã được tổ chức để so sánh phương thức đánh máy của Longley
với đối thủ cạnh tranh của bà, Louis Taub, người sử dụng kĩ thuật đánh máy
khác trên một bàn phím phi-QWERTY. Học trò xuất sắc của bà, Frank
McGurrin, đã chiến thắng bằng cách ghi nhớ các phím QWERTY và đánh
máy bằng phương thức cảm nhận phím (touch typing). Sự kiện này được rất
nhiều người biết đến và phương thức cảm nhận phím đã nhanh chóng được
những nhân viên đánh máy ở Mỹ lựa chọn. Bàn phím QWERTY trên máy
chữ Remington trở nên thông dụng tới mức việc phân bổ lại các phím hiệu
quả hơn là cả một cuộc cách mạng. Dù sao, câu chuyện này chỉ là huyền
thoại, vậy sự thật từ ngày đó đến nay ra sao?
Theo huyền thoại này, bàn phím QWERTY được thiết kế cho những chiếc
máy chữ thế kỉ XIX với cơ chế gõ đã quá chậm so với tốc độ ngón tay con
người – các phím có thể kẹt ngay lập tức nếu sử dụng hết khả năng của các