Quân Tây Sơn tốc hành đánh chiếm nhiều đồn lũy. Vậy mà Phạm Ngô
Cầu vẫn đang cầu cúng ở chùa Thiên Mụ. Đến khi tàn quân về báo Hoàng
Nghĩa Hồ tử trận mới biết mắc mưu, vội lệnh cho quân sĩ về thành chuẩn bị
đối phó, nhưng tướng sĩ bận phục dịch đàn cũng nên đã quá mệt mỏi. Lúc
này, Nguyễn Huệ thực hiện mưu kể thứ hai, lần này theo sự tư vấn của
Nguyễn Hữu Chỉnh thực hiện kế ly gián. Gửi thư dụ hàng Hoàng Đình Thể,
song lại sai người cố ý đưa thư nhầm cho Phạm Ngô Cầu. Phạm Ngô Cầu
nhận được thư, thế là nghi ngờ Đình Thể không hết lòng chiến đấu. Đến khi
đại quân Nguyễn Huệ kéo đến, Phạm Ngô Cầu bàn nên hàng, còn Hoàng
Đình Thể muốn đánh. Cầu bèn để cho Thể đánh, còn mình khư khư ở trong
thành Phú Xuân. Trong khi Thể đang liều chết ngoài của thành thì oái oăm
sao bên trên, Cầu đa nghi treo cờ trắng. Vậy là ngày 22 tháng 6 năm 1786,
Nguyễn Huệ chiếm được Phú Xuân. Cùng thời điểm ấy, quân của Nguyễn
Lữ cũng đã chinh phục xong Lũy Thầy (Lũy Đào Duy Từ), như vậy Tây
Sơn có hoàn toàn đất cũ của chúa Nguyễn và trực tiếp uy hiếp Bắc Hà.
Theo lệnh Nguyễn Nhạc thì Nguyễn Huệ sẽ dừng ở đây, nhưng hai kẻ
kiêu hùng là Nguyễn Hữu Chỉnh và Nguyễn Huệ thì đã nhìn tới Thăng
Long. Nhưng ai hơn ai? Đoạn đối thoại trong Hoàng Lê nhất thống chí sẽ
cho ta thấy điều đó.
“Nguyễn Hữu Chỉnh tới trại Nguyễn Huệ, và nói:
- Ngài vâng mệnh ra lấy Thuận Hóa, đánh một trận mà xong, oai danh
lừng lẫy khắp thiên hạ. Phép dùng binh có ba điều cốt yếu, một là “thời”,
hai là “thế”, ba là “cơ”; ba điều ấy đều có cả thì đánh đâu cũng thắng. Nay
ở Bắc Hà, tướng lười binh kiêu, triều đình không còn kỷ cương gì cả, ta
thừa thế mà đánh lấy, như trong sách đã nói: “Chiếm nước yếu, đánh nước
ngu, lấy nước loạn, lấn nước suy vong.” Cơ và thời ấy không nên bỏ lỡ!
Nguyễn Huệ đáp:
- Bắc Hà là một nước lớn, có nhiều người tài. Lời xưa có nói: “Con ong
có nọc”, há có thể khinh thường được ư?