lập, đứng lên chống lại sự xâm lược qua từng thời kỳ mà còn củng cố văn
hóa nghìn năm của dân tộc này, đó là “văn hóa lũy tre làng”. Làng xã Việt
Nam phía sau lũy tre đã quay tròn lại cùng nhau, kể cho nhau thuở Hồng
Bàng, Văn Lang, Âu Lạc, đã nhắc nhở nhau và giữ gìn truyền thống ăn
trầu, nhuộm răng, để 1000 năm mất nước vẫn không quên đi nguồn gốc đất
tổ. Khi Khúc Hạo Cơ cấu phân khu xã làng và quận, ông đã gián tiếp thu
gom lực lượng, chính thức hóa một nét Việt và bảo vệ mãi mãi truyền
thống ấy.
Cải cách thứ hai của Khúc Hạo là kinh tế. Khúc Hạo chấm dứt tình trạng
tô thuế, lao dịch và cống nạp nặng nề mà người Việt phải chịu đựng trong
quá trình Bắc thuộc trước đó. Ông cho ban hành chính sách “bình quân
thuế ruộng”, có nghĩa là phân phối ruộng đất theo chế độ công xã, và tiến
hành đánh thuế bình quân theo ruộng đất mà các hộ được phân chia. Điều
này giúp nông dân đẩy mạnh sản xuất và an tâm cày cấy.
Ngoài ra, Khúc Hạo còn sửa đổi lại chế độ điền tô, tha bỏ lực dịch, lập sổ
hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp) trông coi. Sách
Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã viết về các chính sách cải
cách của Khúc Hạo bằng 11 chữ sau: “Cốt khoan dung giản dị, nhân dân
đều được yên vui.”
Mặc dù hoàn cảnh dân tộc khi ấy khiến cho những cải cách của Khúc
Hạo chưa được toàn diện và triệt để nhưng tính từ khi lập nước, cải cách
của Khúc Hạo đã đưa dân tộc ta tiến một bước dài đến tự chủ và độc lập.
Một ngôi nhà chỉ yên ấm khi nền móng chắc chắn, một con người chỉ thành
công khi cái gốc vững vàng. Câu chuyện từ dòng họ Khúc lặng lẽ xây dựng
vun đắp nước Việt để tạo nên chiến thắng cho dân tộc sau đó hơn 30 năm
chính là bài học lịch sử vĩ đại mà tiền nhân đã dạy chúng ta.
Năm 917, Khúc Hạo mất. Con trai ông là Khúc Thừa Mỹ lên thay. Khúc
Thừa Mỹ không có được tính nhẫn nại của cha và ông, đã vội vàng gây sự
với quân Nam Hán. Kết quả, gây ra cuộc chiến tranh vào năm 930. Quân
Nam Hán tiến quân thần tốc, đánh bại quân Việt, Khúc Thừa Mỹ bị bắt,