phải khiến họ cảm thấy việc làm của mình không bị đe dọa.
Khi người ta bắt đầu cảm thấy việc làm của họ bị đe dọa, hay sự
an toàn của họ bị đe dọa, họ sẽ ít quan tâm hơn đến nhu cầu
thành công hay quan hệ xã hội. Đó là lý do tại sao khi nền kinh tế
suy thoái, hoạt động đội nhóm thường bị phá vỡ.
Kể từ thập niên 1950, người ta nhận thấy lĩnh vực động viên con
người có một số phát triển đáng chú ý. Có rất nhiều lý thuyết
được đưa ra nhằm giải thích và tác động đến hành vi con người
tại nơi làm việc, bao gồm Thuyết hiệu quả tự thân (Self-Efficacy
theory) của Albert Bandura, Thuyết X và Thuyết Y (Theory X and
theory Y) của Douglas McGregor, Thuyết kỳ vọng (Expectancy
Theory) của Victor Vroom, Thuyết hai nhân tố (Two-factor
theory) của Frederick Herzberg, Thuyết giá trị kỳ vọng
(Expectancy-value theory) của Martin Fishbein, Thuyết xác lập
mục tiêu (Goal-setting theory) của Edwin Locke và Thuyết công
bằng (Equity theory) của John Adams. Mỗi lý thuyết trên đều góp
phần quan trọng giúp chúng ta hiểu thêm động lực và năng suất
làm việc của nhân viên. Tóm lại, các nghiên cứu này đã cung cấp
những bằng chứng đánh bại lập luận cho rằng con người được
động viên bởi suy nghĩ, cảm nhận và niềm tin của chính mình.
Đồng thời, các nghiên cứu này cũng chỉ ra sai lầm trong những
nguyên tắc huấn luyện bằng cách thưởng phạt của Skinner khi
lấy kết quả thử nghiệm hành vi đạp lên bàn đạp và lấy thức ăn
thành công của các vật thí nghiệm để giải thích trọn vẹn sự phức
tạp trong việc động viên con người. Điều đó chứng tỏ Skinner đã
thất bại trong cuộc chiến thực nghiệm này. Dù vậy, chúng ta vẫn
không hiểu được tại sao cách tiếp cận chủ yếu của mình trong
việc động viên nhân viên vẫn tiếp tục là các chương trình khen
thưởng và công nhận dựa trên những nguyên tắc huấn luyện
bằng cách thưởng phạt. Thật không hợp lý.
Động lực ở nơi làm việc ngày nay
Ngày nay, nơi làm việc và nhân viên khác hẳn so với nửa đầu thế
kỷ XX. Một trong những thay đổi lớn nhất là sự kỳ vọng của nhân
viên và mối quan hệ của họ với công việc. Các nhà quản lý, lãnh
đạo và các chuyên gia nhân sự phải sẵn sàng từ bỏ những quan
24