móng vuốt sắc nhọn của chúng cào qua người mình. Bầy động vật đó
đến nhanh, và đi cũng nhanh, trong chớp mắt đã mất hút ở bên kia động.
Phương Mộc dựa vào vách động, hồn bay phách lạc, tim đập thình
thịch, như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Mãi mới lấy lại được bình tĩnh,
Phương Mộc nhận ra đám động vật biết bay đó chắc là dơi. Một nỗi lo
lớn hơn xâm chiếm lấy tâm trí anh: Không biết chiều dài của cái động
núi này rốt cuộc là bao nhiêu, cũng không biết đám dơi vừa kinh động
bay lên ấy có làm cho người trong động phát hiện ra?
Phương Mộc khom người, tắt đèn pin, nín thở. Mấy phút sau, trong
động vẫn im lìm. Anh mới bật đèn pin, tiếp tục lên đường.
Sau khi đi tiếp khoảng vài trăm mét, trước mặt xuất hiện một lối rẽ.
Ngoài lối đi sâu vào trong động, còn có hai lối rẽ sang bên trái và bên
phải. Phương Mộc do dự một lúc, rồi lấy cuốn sổ ghi chép ra, cho đèn
pin lên miệng ngậm và vẽ một bức sơ đồ, sau đó anh chọn lối đi ở giữa,
tiếp tục tiến về phía trước.
Đi được vài chục mét, Phương Mộc phát hiện ra đó là một lối cụt,
hiện ra trước mặt anh là vách động gồ ghề, không có bất cứ lối ra nào.
Phương Mộc quay lại chỗ rẽ ban đầu, rồi đi theo lối bên tay trái, đi được
một đoạn thì phát hiện ra đó cũng là một lối cụt. Có điều tận cùng lối rẽ
này là một vũng nước. Phương Mộc vốc một chút nước lên xem, nước
trong veo, chắc là nước chảy liên tục, anh cắm chiếc nạng gấp xuống
thăm dò độ sâu, thấy không chạm được đến đáy.
Phương Mộc lại trở về chỗ rẽ rồi đi theo lối bên phải. Trong động
vẫn tối đen như mực, tình hình không hề khác trước. Rút kinh nghiệm từ
vũng nước ở động núi bên trái, Phương Mộc chú ý quan sát dưới chân để
tránh không bị hẫng chân rơi xuống nước. Sau khi đi được mười phút, có
tiếng nước thấp thoáng vọng tới bên tai. Phương Mộc thấy trong lòng
lạnh toát, không lẽ phía trước lại là một vũng nước, thế thì đúng là không
còn đường nào để đi nữa.