không?”
“Gì hả?” La Tập ngạc nhiên nhìn cô, rồi lại nhìn mặt đất lốm đốm những
khoang tuyết đọng ở hai bên xe, “Ồ, đúng là hơi giống… anh bảo này, em
thích nhất là mùa nào?”
“Mùa thu.” “Sao không phải là mùa xuân?”
“Mùa xuân… quá nhiều cảm giác chen chúc dồn dập, mệt mỏi lắm, mùa
thu thích biết bao nhiêu.”
La Tập dừng xe, cùng cô bước tới mép ruộng, ngắm nhìn mấy con chim
sẻ đang kiếm ăn dưới đất, đến khi họ bước lại thật gần chúng mới bay lên
ngọn cây ở phía xa xa. Kế đó, họ đi xuống một lòng sông gần như đã cạn
khô, chỉ còn một dòng chảy nhỏ ở chính giữa lòng sông, nhưng xét cho
cùng vẫn là một con sông phương Bắc, họ nhặt những hòn sỏi lạnh như
băng trong lòng sông ném vào dòng nước, nhìn thứ nước màu vàng đục bắn
từ những hố bị ném thủng hiện ra trên lớp băng mỏng. Họ ghé qua một thị
trấn nhỏ, loanh quanh một lúc lâu trong chợ phiên, cô ngồi xổm trước một
sạp bán cá vàng không đi nữa, dưới ánh mặt trời, những con cá vàng trong
bể cá thủy tinh hình tròn trông như đốm lửa đang chuyển động, La Tập
mua cho cô hai con, đựng trong túi nylon đầy nước đặt ở ghế sau xe. Họ đi
vào một ngôi làng, nhưng không có cảm giác tìm về làng quê lắm, nhà cửa
đều rất mới, có mấy nhà trước cửa còn có ô tô đậu, đường chính trải xi
măng rộng rãi, quần áo mọi người cũng không khác gì trên thành phố, có
mấy cô gái còn ăn mặc rất thời thượng, đến cả lũ chó trên đường cũng đều
là loại ký sinh trùng lông dài chân ngắn, hệt như trong thành phố. Nhưng
sân khấu kịch lớn ở đầu làng lại rất thú vị, họ lấy làm ngạc nhiên sao một
ngôi làng nhỏ thế này lại dựng sân khấu kịch cao như thế. Sân khấu trống
không, La Tập tốn khá nhiều công sức mới leo lên được, đứng đối diện với
khán giả duy nhất ở bên dưới là cô, hát bài “Cây thùy dương”. Buổi trưa,
họ ăn cơm ở một thị trấn nhỏ khác, mùi vị thức ăn ở đây cũng không khác
trong thành phố cho lắm, chỉ là phần ăn nhiều gần gấp đôi. Sau bữa cơm,