lá mục dày bị giày xéo tạo thành một cái rãnh dài, có nước rỉ ra, lá rụng
nhiều năm tích tụ khiến nước có màu đỏ sậm, giống như máu.
“Tiểu Diệp, qua đây nghỉ ngơi đi.” Bạch Mộc Lâm chỉ vào bên còn trống
của gốc cây to, nói với Diệp Văn Khiết, Diệp Văn Khiết quả thực đã thấm
mệt, cô bỏ dụng cụ xuống, đi tới ngồi xoay lưng vào lưng anh chàng phóng
viên họ Bạch.
Im lặng một lúc lâu, Bạch Mộc Lâm đột nhiên nói: “Tôi nhìn ra được
cảm giác của cô, ở đây cũng chỉ có hai chúng ta là có cảm giác ấy thôi.”
Diệp Văn Khiết vẫn im lặng, Bạch Mộc Lâm đoán cô sẽ không trả lời.
Diệp Văn Khiết bình thường đã ít nói, hiếm khi nào giao lưu với người
khác, một số người mới đến thậm chỉ còn tưởng cô bị câm.
Bạch Mộc Lâm lại tự nói một mình: “Một năm trước khi đi tiền trạm tôi
đã đến khu rừng này, còn nhớ lúc đó là giữa trưa, người tiếp đãi chúng tôi
nói hôm nay ăn cá, tôi đưa mắt nhìn quanh gian nhà nhỏ lợp vỏ cây ở giữa
rừng ấy, chỉ thấy có một nồi nước, làm gì có cá mú nào; sau khi nước sôi,
anh nuôi xách cái chày cán bột ra, đi xuống con sông nhỏ trước nhà đập
‘bộp bộp’ mấy phát, liền bắt được mấy con cá to… đủ thấy vùng đất này
thật trù phú biết mấy, nhưng giờ nhìn con sông đó mà xem, chỉ còn lại một
rãnh nước đục ngầu chẳng có gì cả. Tôi thật sự không biết, giờ đây phương
hướng mở rộng của cả cái binh đoàn này là sản xuất hay là phá hoại nữa?”
“Suy nghĩ này của anh từ đâu mà có vậy?” Diệp Văn Khiết khẽ hỏi,
nhưng không lộ vẻ tán đồng hay phản đối. Có điều, chỉ riêng chuyện cô
chịu mở miệng nói chuyện đã khiến Bạch Mộc Lâm cảm kích lắm rồi.
“Tôi vừa đọc một quyển sách, rất cảm động… cô có đọc được tiếng Anh
không?” Thấy Diệp Văn Khiết gật đầu, Bạch Mộc Lâm lấy trong túi ra một
cuốn sách bìa xanh da trời, lúc đưa cho cô, anh còn nửa vô tình nửa cố ý
liến mắt nhìn xung quanh, “Cuốn sách này được xuất bản năm 1962, có ảnh
hưởng rất lớn ở phương Tây.”