quần. Ngày hôm sau, đại đội mở cuộc họp, cả hai đều bị xử phạt cảnh cáo.
Có thể vì chuyện này, bên phái căn cứ mới quyết định chặt cây tạo thành
một vành đai cảnh giới ở khu rừng rậm xung quanh ngọn núi, đồng thời, từ
việc nhân lực trong binh đoàn có thể cho họ tùy ý điều động cũng thấy được
cấp bậc hành chính của họ rất cao.
Bạch Mộc Lâm nhận lấy cuốn sách, cẩn thận nhét dưới gối, đồng thời lấy
ra mấy trang giấy viết chi chít chữ, đưa cho Diệp Văn Khiết, “Đây là bản
nháp của lá thư đó, cô xem coi có được không?”
“Thư?”
“Tôi có nói với cô, phải viết thư cho trung ương.”
Nét bút trên mấy tờ giấy rất tháu, Diệp Văn Khiết mất khá nhiều công
sức mới đọc hết. Lá thư này là lập luận nghiêm túc, cẩn trọng, nội dung
phong phú: từ chuyện thảm thực vật núi Thái Hành trù phú trong lịch sử bị
phá hoại đã biến thành núi trọc khô cằn ngày hôm nay, đến chuyện thời nay
hàm lượng cát bùn sông Hoàng Hà đang gia tăng nhanh chóng, để đưa ra
kết luận hành vi khẩn hoang của Binh đoàn xây dựng Nội Mông Cổ sẽ dẫn
đến hậu quả nghiêm trọng. Diệp Văn Khiết thấy văn phong của anh rất
giống với Mùa xuân tĩnh lặng, giản dị, chính xác, lại bao hàm ý thơ, khiến
người xuất thân từ khoa học tự nhiên như cô đọc cảm thấy rất dễ chịu.
“Viết hay lắm.” Cô thật lòng khen ngợi.
Bạch Mộc Lâm gật đầu, “Vậy tôi sẽ gửi đi.” Nói đoạn, anh lấy ra một tập
giấy mới toan chép lại, nhưng tay run quá, không viết nổi chữ nào. Người
lần đầu tiên dùng cưa máy đều như vậy, tay run đến nỗi bát cơm cũng
không bưng nổi, nói gì đến viết chữ.
“Để tôi chép lại hộ anh nhé.” Diệp Văn Khiết nói, đoạn cầm lấy cây bút
Bạch Mộc Lâm đưa cho bắt đầu chép.
“Cô viết đẹp thật đấy.” Bạch Mộc Lâm nhìn hàng chứ đầu tiên chép ra
trên tờ giấy, nói. Anh rót cho Diệp Văn Khiết một cốc nước, tay vẫn run dữ
dội, nước vãi ra khá nhiều, cô vội dịch tập giấy viết thư sang một bên.