đâu, còn ngài công tố viên Bruno thì ngồi lọt thỏm trong một chiếc ghế cổ
với dáng vẻ bồn chồn, cáu kỉnh.
Thân hình nhỏ bé tròn trịa của Falstaff cúi xuống chào rồi tự di chuyển
đến đánh thức sự chú ý của Bruno. “Gì thế?”
“Ngài Drury Lane cáo lỗi, thưa ngài. Ngài ấy nhắn bảo các ngài đợi một
lát thôi ạ.”
Bruno gật đầu chẳng lấy gì làm nhiệt tình, riêng Thumm thì tủm tỉm cười
một mình.
Đang khi chờ đợi, ánh mắt mọi người tò mò dạo quanh gian phòng rộng
thênh thang. Trần nhà nhìn cao ngất, và hết ba mặt tường đều ốp giá sách
chạy dài từ sàn lên đến trần, tất cả đều xếp kín dễ đến hàng ngàn bộ sách.
Đây đó là những chiếc thang thư viện đứng kẹp vào những ngăn giá sách ở
trên cao. Chạy quanh hết phòng có một ban công kiểu cổ trông thật lạ mắt,
ở hai đầu là hai nhịp thang uốn lượn với những bậc thang bằng sắt dẫn lên
ban công, khảm chìm vào đấy có những tấm biển đồng phân mục sách.
Chiếc bàn hình bán nguyệt được kê ở một góc phòng hẳn là nơi bất khả
xâm phạm của vị thủ thư đặc biệt nào đấy, mặc dù chỗ ngồi nơi chiếc bàn
lúc này đang để trống. Bày biện trên vách tường thứ tư có vài thứ khiến
người xem phải tò mò; Bruno sốt ruột nhổm người ra khỏi ghế rồi bắt đầu
cất bước dạo quanh. Ông nhìn ra một tấm bản đồ cổ đánh véc-ni cứng cáp
mặt ốp kính nằm chính giữa vách tường thứ tư; dòng ghi chú đóng khung
hoa trang trí ở góc dưới bên trái cho biết đấy là bản đồ thế giới năm 1501.
Một bộ sưu tập trang phục thời Elizabeth, mỗi thứ đặt vào một chiếc hộp
riêng, xếp thành hàng áp vào tường…
Ai nấy đều quay đầu lại khi cánh cửa thư phòng đột ngột mở ra và cái
hình dáng nhăn nheo khô đét của Quacey lách vào. Lão đứng giữ cánh cửa
rộng mở, bộ mặt già nua héo hắt của lão đang toe toét cười chừng như thú
lắm.
Rảo bước qua ô cửa tò vò là một gã đàn ông vóc người cao lớn vạm vỡ,
gương mặt đỏ lừ đang giương mắt nhìn họ vẻ kênh kiệu. Gã có một chiếc
cằm oai phong, nhưng hai bên má đã hơi xệ và quanh đôi mắt là những dấu