hiếm. Thuyền trưởng Trivett từng tặng nó cho tôi. Nhưng tôi không chắc
lắm…
Cặp mắt già nua của thuyền trưởng Trivett hấp háy; chúng có màu xanh
sắc nét, nhưng giờ đang lộ vẻ hoang mang. Khuôn mặt dạn dày sương gió
của ông ta chuyển sang màu giống da yên ngựa cũ khi cặp mắt mọi người
đổ dồn về phía ông ta.
“Chà, thuyền trưởng à?” Thumm thắc mắc. “Ông có thể giải thích giúp
không?”
Giọng nói khàn đục của thuyền trưởng Trivett vỡ ra. “Cô ấy vẫn nhớ, trời
ạ! Để xem nào… Đó là một tối của bảy năm về trước. Một người bạn của
tôi - thuyền trưởng Corcoran của tàu Trinidad - đã mang nó theo từ vùng
Nam Mỹ…”
“Bảy năm trước!” vị công tố viên thốt lên. “Một quãng thời gian dài để
nhớ về một mùi hương.”
“Louisa là một phụ nữ phi thường,” viên thuyền trưởng nói tiếp, chớp
mắt một lần nữa.
“Phong lan,” Lane trầm ngâm. “Được trồng ở nước ngoài. Giống phong
lan nào vậy, thuyền trưởng, ông còn nhớ không?”
Đôi vai to bè xương xẩu của người thủy thủ già giật bắn. “Xin chịu thôi,”
ông ta nói, với chất giọng như tiếng một cái tời cũ gỉ. “Một giống quý
hiếm.”
“Hừm.” Lane xếp bộ chữ nổi một lần nữa. “Chỉ có đúng mùi loại phong
lan đó thôi, không có gì khác à?”
Vâng. Tôi yêu hoa và không bao giờ quên mùi của chúng. Đó là lần duy
nhất tôi từng ngửi mùi hoa phong lan.
“Bí ẩn vĩ đại của nghề làm vườn,” Lane nhận xét, cố tỏ ra tươi vui.
Nhưng đôi mắt ông thì chẳng vui chút nào và một chân ông thì mải gõ
xuống sàn. Họ dõi theo ông với vẻ mệt mỏi vô vọng. Rồi đột nhiên Lane
bừng tỉnh, và vỗ đánh bốp vào trán. “Phải rồi! Tôi đã bỏ qua câu hỏi hiển
nhiên nhất!” và thêm một lần nữa trở nên bận rộn với những miếng chữ
kim loại nhỏ. Thông điệp như sau: “Cô bảo là ‘kem.’ Loại kem nào?
Chocolate? Dâu? Chuối? Óc chó?”