thấp đỏ và con đường rải sỏi, những lối đi hẹp, mái nhọn và hiên đầu hồi,
tất cả đều hết sức quyến rũ. Viên thanh tra ngỡ ngàng đến ngây người. Chỉ
khi trông thấy một đám đàn ông, phụ nữ mặc quần áo của thế kỷ XX thì
ngài mới bắt đầu bình thường trở lại. Dù đã ghé lâu đài Hamlet không ít
lần, nhưng đây là lần đầu tiên Thumm tới ngôi làng này. Họ dừng chân
trước một kiến trúc thấp màu nâu với cửa sổ có chấn song và có biển gỗ
treo bên ngoài. “Ngài đã nghe về quán Mermaid Tavern, nơi gặp gỡ của
Shakespeare, Ben Jonson, Raleigh, Francis Beaumont và những người khác
chưa?”
“Hình như tôi biết đấy,” viên thanh tra tỏ vẻ kinh ngạc, “ở London, quán
rượu này là nơi lũ choai choai rủ rê tới ăn nhậu đập phá.”
“Chính xác. Ở phố Bread, Cheapside - gần phố Friday. Và còn hàng tá
tên tuổi kỳ lạ ngài có thể nhận ra khi đến đó vào các Chủ nhật. Đây,” Drury
Lane tiếp tục, với một động tác khom người lịch sự, “là bản sao hoàn chỉnh
nhất của quán rượu bất diệt đó, thưa thanh tra. Cùng vào thôi.”
Thanh tra Thumm cười tươi. Căn phòng với trần bằng xà dầm đầy những
khói thuốc, tiếng huyên náo và mùi rượu bia nồng nặc. Viên thanh tra gật
gù tán thưởng. “Nếu đây là kiểu giải trí của các chàng trai từ vài trăm năm
trước, thì ngài Lane ạ, tôi tới luôn. Được đấy!”
Một người dáng thấp bụng phệ với nước da đỏ au, với tạp dề trắng tinh
quấn chặt quanh eo, hối hả lao đến chào mừng họ.
“Ngài còn nhớ Falstaff, nhà vô địch Falstaff không?” Lane hỏi, vỗ vào
mái đầu hói của mình.
“Nhớ chứ!”
Falstaff khom người và cười tươi. “Vại đầy chứ, ngài Drury?”
“Đầy, và thêm một vại cho thanh tra Thumm, cùng một chai brandy, và
thêm đồ nhắm ngon. Tới đây nào, thanh tra.” Ông dẫn lối qua căn phòng
đông đúc, gật đầu và mỉm cười với đám thực khách ồn ã. Họ tìm thấy một
góc bàn trống và tự ngồi xuống một băng ghế dài. Falstaff, với tư cách chủ
quán hơn bao giờ hết, đôn đốc việc chuẩn bị món khai vị bữa trưa và tự
mình đưa lên phục vụ. Viên thanh tra thở dài một hơi và vục cả chiếc mũi
to vào vại bia đầy bọt.