từ thực tế, bà ta hẳn đã ngồi dậy hay ở tư thế nửa ngồi nửa nằm. Dựa trên
căn cứ đó, có thể kết luận ngay là bà ta đang thức.”
“Rất thông minh, thưa ngài,” bác sĩ Merriam nói, người đứng cứng đơ,
và những ngón tay trắng dài thì đan vào nhau vẻ bồn chồn.
“Rất có cơ sở. Bác sĩ Schilling, theo ông ước đoán thì bà Hatter chết vào
mấy giờ?”
Bác sĩ Schilling lôi cái tăm ngà từ túi áo gilê và bắt đầu xỉa răng. “Chết
sáu giờ trước. Tức là, bà ta chết vào tầm bốn giờ sáng.”
Lane gật đầu. “Có một chi tiết quan trọng đấy, bác sĩ, đó là biết chính xác
nơi kẻ sát nhân đã đứng khi hắn đánh bà Hatter. Ông có thể xác định rõ vị
trí đó không?”
Bác sĩ Schilling trầm ngâm liếc nhìn cái giường. “Tôi tin là có thể. Tên
sát nhân đứng giữa hai cái giường, không xa cái giường người chết lắm. Từ
vị trí của thi thể và góc chéo của những vệt máu trên trán. Ông nghĩ sao bác
sĩ Merriam?”
Viên bác sĩ già bắt đầu. “À, thì tôi khá đồng tình,” ông ta vội đáp lời.
Thanh tra Thumm cau có mở cặp hàm nặng nề. “Chi tiết cây đàn
mandolin chết tiệt… Làm tôi rối trí, chẳng biết sao nữa. vấn đề là, đau tim
hay không đau tim, thì có khả năng nào là cú đánh đó đã giết chết bà ta
không? Ý tôi là, sau rốt, nếu một kẻ muốn giết người, ngay cả khi hắn chọn
một thứ vũ khí buồn cười thì hắn sẽ chọn thứ có thể đánh lừa người ta.”
“Vâng, không thể loại trừ các khả năng, Thumm à,” Schilling cất tiếng.
“Một cú đánh với lực mạnh từ một thứ vũ khí tương đối nhẹ như đàn
mandolin có thể giết chết một phụ nữ mang bệnh và đã già như bà Hatter.
Nhưng cú đánh này thì lại khá nhẹ.”
“Vậy là không có dấu vết nào khác trên thân thể của hành vi bạo lực?”
Lane hỏi.
“Không.”
“Thế còn chất độc?” Bruno thắc mắc. “Có dấu vết nào không?”
“Không dấu vết gì,” bác sĩ Schilling cẩn trọng đáp lời. “Ngoài ra - vâng,
tôi sẽ tiến hành mổ tử thi. Ngay tức thì.”