vào trong cuốn kinh nhật tụng cũ khi ta chuẩn bị ra về. Cậu ta nói cậu ta
không hề biết nội dung tin nhắn đó là gì. Ôi trời ơi…”
Tất cả chúng tôi ngồi đó và đợi chờ cái điều chúng tôi e rằng sẽ xảy ra.
Liệu họ có tìm được tù nhân bỏ trốn không? Dường như không có khả năng
hắn có thể thoát khỏi tay các lính gác ngục.
“Mấy tên lính có nói với nhau,” Cha Muir run rẩy nói, “chuyện thả chó
ra.”
“Cháu nghĩ mình nghe thấy chúng - đang sủa,” tôi thì thầm. Tất cả chúng
tôi cùng im lặng. Mấy phút đã trôi qua. Từ khi đám tù nhân quay về, những
tiếng quát lác và những chùm đèn chiếu điên loạn lên bầu trời. Cả buổi tối,
mấy chiếc xe liên tục vào ra khỏi sân tù, vài xe thẳng tiến lên con đường
xuyên rừng, vài xe gầm rú lao qua cửa nhà Cha Muir. Có lần chúng tôi thực
sự trông thấy một người mặc đồ đen, đang nắm chắc rất nhiều sợi xích
được tròng vào cổ những con chó tàn ác đáng sợ.
Từ lúc quá mười giờ một chút, khi linh mục quay về cho đến nửa đêm,
chúng tôi ngồi bất động trên hàng hiên; và dường như đối với tôi, đằng sau
lớp mặt nạ của mình, ngài Drury Lane đang đấu tranh với một niềm tin nào
đó, khiến ông không thể nắm bắt được rõ ràng. Ông không nói gì, nhưng
trầm tư nhìn lên bầu trời đêm bằng con mắt nhắm hờ, những ngón tay của
ông đan vào nhau trước mặt. Dường như đối với ông chúng tôi không hiện
hữu. Có phải trước kia từng có lần Aaron Dow rời khỏi nhà tù Algonquin,
và một người đã chết? Phải chăng ông đang cố nắm bắt điều đó? Tôi nghĩ
mình có thể nói điều gì đó…
Sự gián đoạn đến thật nhanh vào lúc nửa đêm, như thể được dàn xếp
trước bởi những vị thần may rủi. Một chiếc xe với tiếng động cơ gầm rú leo
lên đồi từ hướng Leeds, phả khói ra rồi dừng lại ngoài cổng nhà. Chúng tôi
đứng dậy ngay lập tức, chẳng ai bảo ai thò cổ vào trong bóng tối.
Một người đàn ông nhảy ra khỏi xe từ ghế sau, lao như bay trên lối đi lên
hàng hiên.
“Thanh tra Thumm? Ngài Lane?” anh ta kêu lên.
Đó là công tố viên John Hume, quần áo xốc xếch, trong tình trạng kích
thích thở hổn hển.