nắm chặt trong tay phải. Rõ ràng ông đang bối rối trước sự có mặt của
những người lạ trong văn phòng cai ngục, vào giờ giấc báng bổ thế này.
“Mời Cha vào, mời vào,” cai ngục Magnus nhẹ nhàng nói. “Tôi muốn
Cha gặp gỡ vài người.” Ông ta giới thiệu chúng tôi.
“Vâng,” Cha Muir nói. “Vâng,” với phong cách khéo léo, chính xác và
lơ đãng. Ông nhìn tôi chăm chú. “Chào cô bé.” Rồi ông tiến đến bàn làm
việc của cai ngục và kêu lên: “Cai ngục, điều này thật khủng khiếp! Tôi
không tin điều đó, vì Chúa là người phán xét ta!”
“Bình tĩnh, thưa Cha,” cai ngục nói bằng giọng tôn kính. “Vào lúc này
hay lúc khác người ta rồi cũng lầm lỗi mà. Ngồi xuống nào. Tất cả cũng sắp
tranh luận về chuyện đó đây.”
“Nhưng Aaron,” Cha Muir nói bằng giọng run rẩy. “Aaron là một người
tốt, thật chân thành.”
“Thôi mà Cha. Hume, tôi cho rằng ngài đang rất háo hức muốn nghe
những gì tôi phải nói. Nhưng đợi một phút đã, tôi sẽ cho ngài xem một hồ
sơ hoàn chỉnh.” Cai ngục Magnus bấm một nút trên bàn làm việc, một lần
nữa viên thư lại mở cửa. “Mang cho tôi hồ sơ của Dow. Aaron Dow. Được
phóng thích vào chiều nay.” Viên thư lại biến mất, một lúc sau quay lại với
một hồ sơ màu xanh to. “Đây rồi. Aaron Dow. Tù nhân số 83532. Tuổi khi
vào tù: bốn mươi bảy tuổi.”
”Hắn đã thụ án bao lâu rồi?” bố tôi hỏi.
”Mười hai năm và vài tháng… Chiều cao mét sáu, nặng năm mươi nhăm
cân, mắt xanh, tóc xám, vết sẹo hình bán nguyệt trên ngực trái…” Cai ngục
Magnus ngước mắt lên trầm tư. “Ông ta đã thay đổi rất nhiều trong mười
hai năm ở đây. Tóc trụi gần hết, ngày càng trở nên yếu đuối - giờ ông ta
gần sáu mươi rồi.”
“Hắn phạm tội gì?” Công tố viên gặng hỏi.
“Ngộ sát. Thẩm phán Proctor của New York tuyên ông ta mười lăm năm
tù. Ông ta đã giết một người tại một quán rượu bên bờ sông ở New York.
Dường như ông ta lúc đó say mèm rượu gin rẻ tiền nên mới gây rối. Ông ta
chưa từng gặp nạn nhân, theo như những gì bên nguyên có thể tìm hiểu
được.”