nó với bánh mì của Paulette”.
Nghe từ thịt hầm, nỗi sợ món thịt thú có túi dồn lên trong tôi. “Không
cần đâu”, tôi hấp tấp. “Chúng tôi ăn bánh mì được rồi”.
“Tôi cũng vậy”, Dimitri nói theo. Không hiểu anh không muốn làm
phiền họ hay cũng sợ đồ ăn như tôi. Có lẽ không phải là cái thứ hai. Dimitri
có vẻ là kiểu người sẵn sàng lao mình vào nơi hoang dã và sống sót nhờ bất
cứ món gì.
Dường như Paillette đã làm rất nhiều bánh mì và các vị chủ nhà cho
chúng tôi thưởng thức bữa ăn dã ngoại trong căn phòng nhỏ cùng với một ổ
bánh lớn và một bát bơ do Sarah tự ủ. Căn phòng có kích thước xấp xỉ
phòng kí túc của tôi ở học viện Thánh Vladimir, với hai tấm nệm lớn trên
sàn. Trên nệm là lớp chăn bông phẳng phiu, những tấm chăn đã lâu không
được dùng tới trong thời tiết mùa hè. Nhấm nháp một miếng bánh mì ngon
đến ngỡ ngàng, tôi lướt tay trên một tấm chăn.
“Nó giống giống những kiểu hoa văn em thấy ở Nga”, tôi nói.
Dimitri cũng chăm chú quan sát. “Giống. Nhưng không hẳn”.
“Đây là sự phát triển của văn hóa”, Sydney nói. Cô đang mệt nhưng
không bỏ bộ mặt hiểu biết. “Các hoa văn truyền thống của Nga được mang
tới đây và dần pha trộn với cách ghép vải của Mĩ”.
Oa! “Ừm, hay nhỉ”. Gia đình chủ nhà đã chuẩn bị đi ngủ, và tôi thận
trọng nhìn cánh cửa bị nứt. Bên ngoài ồn ào và bận rộn, có lẽ chúng tôi sẽ
không bị nghe trộm, nhưng tôi vẫn hạ giọng. “Cậu có định giải thích xem
những người này là ai không?”
Sydney nhún vai. “Những Kẻ Gìn Giữ”.
“Ờ, biết rồi. Còn bọn tớ là Những Kẻ Vấy Bẩn. Vẫn còn tốt hơn
Strigoi”.
“Không”. Sydney dựa lưng vào bức tường gỗ. “Strigoi là Những Kẻ
Lạc Lối. Các người Vấy Bẩn vì đã gia nhập thế giới hiện đại và bỏ truyền
thống xưa để tạo ra những phong tục kì quái bây giờ”.