than thở để thổ lộ với nhau. Và Natalya Pavlovna hỏi chồng:
"Mình biết cuộc gặp này từ bao giờ?"
"Cách đây hai ngày. Còn em?
"Hôm thứ ba. Ông Trung tá hồi nãy còn hỏi em là có phải em là em gái của
mình không".
"Bởi vì chính mình trùng tên thánh?"
Natalya gật đầu.
Khi họ bắt đầu hứa hôn với nhau, và nhất là trong thời gian họ sống với
nhau trên sông Amur, mọi người đều tưởng rằng họ là anh em. Họ có cái vẻ
bên ngoài sung sướng, hồn nhiên và sự giống nhau trong tâm hồn làm cho
họ gần nhau hơn cả vợ chồng.
"Còn em sao? Có khổ sở lắm không?"
"Sao anh lại hỏi em thế?" – Nàng lo âu hỏi lại – "Anh biết ư?"
"Biết gì?"
Anh biết, nhưng anh không biết rõ, không biết hết. Anh biết rằng ở bên
ngoài, cuộc đời những người vợ tù khổ sở ghê gớm. Họ bị hành hạ, họ bị
tẩy chay vì chồng họ là tù.
Nhưng làm sao anh có thể biết rằng trong ngày thứ tư vừa qua vợ anh đã bị
đuổi khỏi sở làm vì nàng là vợ anh? Và từ ba ngày nay, sau khi nhận được
giấy gọi đi thăm chồng, nàng đã ngừng không còn đi tìm việc nữa. Nàng
chờ đợi cuộc gặp mặt này như nó sẽ gây ra một phép lạ, và nó sẽ đem ánh
sáng đến chan hòa đời nàng, chỉ cho nàng biết nàng phải làm gì.
Xong làm sao chồng nàng có thể khuyên được nàng nên làm gì, vì chồng
nàng là người đã ở tù quá nhiều năm, chồng nàng hoàn toàn không còn
quen thuộc gì với những cách sống của người thường.
Natalya phải chọn một quyết định: ly dị chồng hay không.
Trong căn phòng lạnh, xám và trơ trụi mà ánh sáng chỉ yếu đuối len vào
được qua khung cửa sổ có chấn song sắt, cuộc gặp mặt và hy vọng ở một
phép lạ của nàng đã trôi đi.
Natalya Pavlovna, trong nửa tiếng đồng hồ ngắn ngủi này, hiểu rằng nàng
không thể diễn tả được sự cô đơn và đau khổ của nàng với chồng nàng.
Nàng thấy rõ chồng nàng đi theo một dòng đời riêng, sống một cuộc đời