con ngựa đại uyển, bên lưng đeo đao, uy phong lẫm liệt đi trước dẫn
đường - Khí phách này năm xưa làm sao có thể sánh được? Nhưng
điều khác hơn so với năm xưa là, Tào Tháo không còn gặp được
những người đi đường có thể kết bạn với mình nữa, càng không thể
tìm thấy những người dân thường có thể trò chuyện với mình được
nữa. Trên đường, nhiều nhặn lắm cũng chỉ có thể nhìn thấy những
người nông dân rải rác trên cánh đồng xa xa. Từ rất xa, trông thấy
đoàn xe nhà quan, nếu họ không phải quay người chạy trốn thì cũng sợ
hãi quỳ mọp dập đầu xuống đất, vẻ sợ sệt trên khuôn mặt không thể
mô tả hết được, cứ y như sợ mình nhảy vồ ra ăn thịt họ vậy. Loạn
Khăn Vàng đã được bình định, nhưng giữa quan lại và dân thường lại
càng thêm xa cách, đặc biệt y lại là một viên tướng có công như vậy,
vô hình trung mang theo mấy phần sát khí bên mình. Uy danh đã lập
được rồi, nhưng uy danh ấy đã nhuộm đẫm máu tanh không thể nào
rửa sạch được!
Tế Nam quốc mà Tào Tháo đến nhận chức chính là quận đứng
đầu ở Thanh Châu, vốn là đất phong thế tập của Lưu Khang - hoàng tử
của Quang Vũ đế và Quách hoàng hậu. Sau rồi, việc nối dõi của phong
quốc bị đoạn tuyệt, đến năm Hi Bình thứ ba, Lưu Hoành sách phong
cho hậu duệ của Hà Gian vương - một người cũng tên Lưu Khang như
lão tổ tiên ngày xưa, lại làm Tế Nam vương. Sau khi ngài Lưu Khang
này chết, nam tử của ông ta là Lưu Vân thế tập. Vì hoàng đế Lưu
Hoành vốn cũng xuất thân là một chi của Hà Gian vương, nên thực tế
Lưu Vân cũng là một người cháu họ xa của đương kim thiên tử. Tuy
giữa đế và vương đã cách xa nhau hai đời, nhưng tuổi tác thực thì hơn
kém nhau không mấy. Mười huyện thuộc hạt của Tế Nam quốc là:
Đông Bình Lăng, Trứ Huyện, Ư Lăng, Đài Huyện, Gian Huyện, Thổ
Cổ, Lương Trâu, Trâu Bình, Đông Triều Dương, Lịch Thành. Cũng
bởi quận này có nhiều mỏ sắt, nên là quận giàu nhất ở Thanh Châu,
cho nên nó mới được đem phân phong cho vương thất. Tất nhiên, Tế