Thạch: đơn vị đo thể tích thời xưa ở Trung Quốc, một thạch
tương đương mười đấu. Chế độ tính lương cho quan chức triều đình khi
xưa được dựa vào số lương ăn được cấp. Nên có cách tính như vậy.
Nghĩa là: Đến tuổi sáu mươi, nghe cái gì cũng xuôi tai.
Hiếu liêm, Mậu tài, Minh kinh, Hữu đạo: là những cách thức
tuyển cử, đề bạt quan chức dưới thời Hán. Hiếu liêm: xét những người
có hiếu hạnh và liêm khiết; Mậu tài: tức tú tài, vì kiêng húy Hán Quang
vũ Lưu Tú nên đổi gọi thành “Mậu tài”; Minh kinh: là khoa thi chọn
những người thông hiểu kinh sách. Hữu đạo: là xét tuyển những người
có đạo đức hoặc tài nghệ.
Người giám sát cai quản công việc.
Tượng đúc những hình người theo các động tác hoạt động
khác nhau dùng để trang trí.
Các cơ quan phụ trách những phần việc khác nhau trong cơ
cấu một bộ thời xưa.
Loại bình dùng tiêu khiển trong khu uống rượu của quý tộc
xưa. Trong tiệc rượu, người ta sẽ thi ném thẻ (hoặc mũi tên) vào trong
một chiếc bình cổ hẹp gọi là bình đầu hồ, ai ném trượt sẽ bị phạt rượu.
Đây là một đoạn trong bài thơ Ly tao của Khuất Nguyên. Bản
dịch của Đào Duy Anh và Nguyễn Sĩ Lâm.
Nghĩa là: Con hổ có bộ mặt cười.
Nghĩa là: Nịnh bợ để được ưu ái
Công đài: chỉ ngôi tam công. Thái úy, Tư đồ, Tư không: Ba
chức vụ thuộc hàng tam công trong triều đình xưa.
Bể hoạn: dịch chữ hoạn hải, con đường làm quan thăng giáng
không chừng, nổi chìm bấp bênh, không khác chiếc thuyền con lênh
đênh trên mặt bể.