nước nhớ nguồn", các nhân vật ấy được thờ cúng ở làng quê như ông vua,
"ông vua" ấy tuy rằng đã chết nhưng có sắc mệnh tước phẩm của vua ban
cho thì cũng như đang sống cùng dân làng. Chính vì thế mà dân quê phải
kiêng tên Thành hoàng nghiêm khắc như lệ kiêng tên húy của nhà vua. Việc
cúng tế thành hoàng cực kỳ kính cẩn và long trọng, việc lựa chọn người thủ
từ coi việc đèn hương cũng rất quan trọng với các quy định rất nghiêm
ngặt. Có nơi đình còn biến đổi thành nơi thờ cúng "các sự kiện, các nhân
vật" có sự tích, có quan hệ trực tiếp đến đời sống dân quê sở tại.
Đình làng vừa là nơi thờ cúng vừa được làm trung tâm hành chính của
thôn làng, là nơi tụ họp ăn uống theo ngôi thứ sắp xếp ở chốn đình trung.
Những hủ tục phiền phức ở chốn đình trung, theo tác giả, đã biến cái làng
cổ xưa thành một triều đình phong kiến thu nhỏ, mà ở đây, điều tệ hại hơn
cả là trong dân làng hình thành tâm lí rất có lợi cho việc cai trị mà rất hại
cho tư cách dân thường là suốt đời chỉ ao ước, mơ mộng vào cái "ngôi ăn
chốn ở" nơi đình trung, chỉ biết "có làng" mà không thấy "có nước".
Tác giả đã du hành qua các thôn làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ để
miêu tả những điều tai nghe mắt thấy và những cảm xúc xung quanh cái
đình, các tục lệ, các hủ tục cỗ bàn cúng tế nơi làng quê.
Phóng sự Tập án cái đình kể lại sự thật, một chuỗi sự kiện và cảm xúc
của tác giả xoay quanh chủ đề "cái đình ở làng quê" cùng với tục lệ ăn uống
cúng tế ở làng quê nước ta, trước hết tại đồng bằng Bắc Bộ, nơi cộng đồng
cư dân chuyên canh lúa nước và chăn nuôi lợn.
Con lợn là vật nuôi chủ yếu, gắn bó với cuộc sống của dân quê. Mở
đầu phóng sự, tác giả nói ngay đến tục lệ hàng năm phải cúng thần bằng
"ông ỷ" với nhạc khí uy nghiêm là cái trống cái, sau đó tác giả tả "cuộc thi
giết bốn lợn" tại "làng Th.L - gọi là "làng Dâm" - của tỉnh Phúc An", rồi
đám phạt vạ một "quan đám" "mất ba lợn, được một trai" vì phạm lỗi "vợ
hai" có chửa khi còn đang làm thủ từ tại làng Th.S thuộc huyện Tiên Du,