Haida im lặng gật đầu.
“Tớ thì tớ không hiểu cho lắm. Nếu như vậy thì rốt cuộc ý chí tự do của
con người có giá trị đến đâu?”
“Một câu hỏi tuyệt vời.” Haida nói. Rồi mỉm cười rất nhẹ. Giống như
kiểu cười của con mèo trong lúc phơi mình dưới nắng ngủ. “Em vẫn chưa
trả lời được câu hỏi đó.”
Haida bắt đầu ở lại căn hộ của Tsukuru vào các đêm cuối tuần. Hai
người hàn huyên tới khuya, rồi Haida dọn dẹp và ngủ trên chiếc xô pha kiêm
giường ngoài phòng khách. Sáng dậy, cậu ta chuẩn bị cà phê, làm trứng ốp
lết. Là người khó tính trong chuyện uống cà phê, nên cậu ta luôn tự mình
mang đến nhà Tsukuru thứ hạt thơm phức được rang cẩn thận và chiếc máy
xay chạy điện loại nhỏ. Say mê hạt cà phê gần như là thói quen xa xỉ duy
nhất trong cuộc sống bần hàn của cậu ta.
Tsukuru kể rất nhiều chuyện về mình một cách chân thành, thẳng thắn
với người bạn mới quen, người bạn mà gã có thể cởi lòng. Duy chỉ có câu
chuyện về bốn người bạn thân ở Nagoya là gã cẩn thận giấu đi. Bởi đó
không phải là điều dễ nói ra. Vết thương trong tim gã vẫn còn rói đỏ và
nghiêm trọng.
Mặc dầu vậy, những khi ở bên người bạn kém tuổi ấy, gã hầu như có
thể quên hẳn bốn con người kia. Mà không, quên không phải là cách diễn
đạt đúng. Nỗi đau khi bị bốn người bạn thân cự tuyệt thẳng thừng vẫn không
suy chuyển bên trong gã. Chẳng qua giờ đây, nó trở thanh giống như một
cơn thuỷ triều, lúc dâng lên, lúc hạ xuống. Có khi tràn tới sát mép chân, có
khi lại rút ra mãi xa, tít tận ngoài tầm mắt. Tsukuru cảm thấy mình đang
từng chút bám rễ vào mảnh đất mới mang tên Tokyo. Lẻ loi và nhỏ bé, song
một cuộc sống mới đang hình thành. Những ngày tháng ở Nagoya dần đi
vào dĩ vãng và trở thành cái gì đó vô cùng xa lạ. Bước tiến ấy, không nghi
ngờ gì nữa, chính là do người bạn mới Haida mang lại.
Haida luôn có quan điểm riêng đối với mọi việc, nên cậu ta có thể trình
bày chúng một cách logic. Càng gặp, Tsukuru càng cảm thấy một niềm kính