“Nó đã ngừng thở một lúc lâu trước khi nhân viên cấp cứu có thể tạo
được lối dẫn cho không khí đi xuống. Bác sĩ ở bệnh viện nói kể cả thoát
khỏi được tình trạng hôn mê, nó cũng có thể bị tổn thương não.”
Brady nghĩ Frankie đã tổn thương não từ trước rồi - nó ngu kinh
khủng, lúc nào cũng ôm khư khư cái xe cứu hỏa ấy - nhưng hắn không nói
gì. Mẹ hắn đang mặc một cái áo hằn cả hai đầu núm ngực. Điều đó cũng
tạo cho hắn một cảm giác lạ lùng.
“Nếu mẹ nói với con điều này, con có hứa sẽ không bao giờ nói với
bất kỳ ai không? Không nói với bất kỳ ai hết?”
Brady hứa. Hắn rất giỏi giữ bí mật.
“Có lẽ sẽ tốt hơn nếu em con chết đi. Vì nếu nó tỉnh lại và bị tổn
thương não, mẹ không biết chúng ta sẽ phải làm gì nữa.”
Rồi bà ta ghì hắn vào lòng và tóc bà ta cọ vào bên mặt hắn còn mùi
nước hoa thì sực nức. Bà ta nói, “Ơn Chúa đó không phải là con, cục cưng
ạ. Tạ ơn Chúa vì điều đó.”
Frankie tỉnh lại thật, và đương nhiên là nó bị tổn thương não. Nó chưa
bao giờ khôn ngoan (“Giống bố nó,” Deborah Ann có lần nói), nhưng so
với bây giờ thì cái hồi trước khi xảy ra vụ nghẹn táo ấy nó là một thiên tài.
Nó biết tự đi vệ sinh rất muộn, phải mãi đến gần ba tuổi rưỡi, thế mà giờ nó
lại quay về đóng bỉm. Vốn từ của nó giảm xuống còn có hơn chục từ. Thay
vì bước đi, nó di chuyển quanh nhà bằng cách lết tập tễnh. Thỉnh thoảng nó
lại thình lình đổ vật ra và ngủ mê mệt, nhưng chỉ vào ban ngày thôi. Đêm
đến, nó có xu hướng đi lang thang, và trước khi nó bắt đầu những chuyến
săn đêm ấy, nó thường lột bỏ mấy cái bỉm Pamper. Đôi khi nó trèo vào
giường với mẹ. Còn chủ yếu là nó vào giường với Brady, làm hắn tỉnh giấc
thấy cái giường ướt sũng còn Frankie thì đang chằm chằm nhìn hắn với vẻ
yêu thương ngơ ngẩn đáng sợ.
Frankie suốt ngày phải đi khám bác sĩ. Nó không bao giờ thở được tử
tế. Nhẹ nhất thì cũng là tiếng khò khè ướt nhoét, còn nặng nhất, khi nó bị
cảm lạnh như cơm bữa, thì nghe như tiếng sủa khằng khặc. Nó không còn
ăn được đồ ăn rắn nữa; thức ăn của nó phải được xay nhuyễn bằng máy và