hơi, và một người nghiện thuốc phiện. Tôi đã làm nhiều sách loại này để
kiếm thêm vài đồng bạc đến độ tôi bắt đầu bịa ra những trò chơi cho mình
để chống lại cơn buồn chán trong khi vẽ; chẳng hạn như tôi buộc mình phải
vẽ một quan tòa mà không nhấc bút lên khỏi mặt giấy hoặc nhắm mắt mà
vẽ gã ăn mày.
Mọi tên cướp, nhà thơ và những người luôn buồn phiền đều biết rằng
khi có hiệu lệnh cầu kinh tối thì những âm hồn và ma quỷ trong họ sẽ càng
lúc càng kích động và nổi loạn, chúng đồng thanh thúc giục: "Ra! Ra
ngoài". Tiếng nói nội tại bất an đó yêu cầu, "Hãy tìm người bầu bạn, tìm
bóng tối khổ não và nhục nhã." Tôi đã dành thời gian xoa dịu những âm
hồn và ma quỷ này. Tôi đã vẽ những bức tranh, mà nhiều người xem như
phép thần diệu hiện ra từ tay tôi, với sự giúp đỡ của những ác thần này.
Nhưng suốt bảy ngày nay cứ sau hoàng hôn, từ khi tôi giết tên tồi tệ đó, tôi
không còn kiểm soát được những âm hồn và ma quỷ trong tôi nữa. Chúng
nổi giận dữ dội đến độ tôi phải tự nhủ có thể chúng sẽ bình tĩnh lại nếu tôi
ra ngoài một lát.
Sau khi nói thế, tôi nhận ra mình lang thang suốt đêm mà không biết
bằng cách nào, cũng như mọi khi. Tôi bước nhanh, qua những con đường
tuyết phủ, những lối đi lầy lội, những con dốc đóng băng và những vỉa hè
vắng ngắt như thể tôi sẽ không bao giờ dừng lại. Trong khi tôi vào bóng tối
của đêm, vào những nơi xa xôi nhất và hoang vắng nhất của thành phố, tôi
dần bỏ linh hồn mình lại phía sau và đi dọc theo những con phố hẹp, tiếng
bước chân tôi dội vào những bức tường đá của quán rượu, trường học và
thánh đường, và nỗi sợ của tôi giảm xuống.
Đôi chân tôi tự ý đưa tôi đến những con đường hoang phế của khu này ở
ngoại ô thành phố, nơi tôi đến mỗi đêm và là nơi mà ngay cả ma quỷ và âm
hồn cũng rùng mình khi đi qua. Tôi nghe nói rằng nửa số dân trong vùng
này đã chết trong những cuộc chiến tranh với Ba Tư, còn số còn lại đã bỏ
đi, cho rằng khu này mang điềm gở. Nhưng tôi không tin điều dị đoan như