thế. Bi kịch duy nhất xảy đến cho nơi tốt đẹp này do những cuộc chiến
tranh Safavid là việc đóng cửa nhà khổ tu phái Kalenderi cách nay bốn
mươi năm vì nó bị nghi là chứa chấp quân thù.
Tôi lang thang đằng sau mấy bụi dâu tằm và những cây nguyệt quế, vốn
tỏa hương thơm dễ chịu ngay cả trong thời tiết lạnh lẽo nhất và với tính khí
bốc đồng thường lệ của mình, tôi dựng ngay ngắn lại những tấm ván ốp
tường nằm giữa ống khói đã sụp và của sổ với những lớp rèm hư nát. Tôi
bước vào và hít vào phổi mùi nhang và mùi mốc còn vương vất hàng trăm
năm. Tôi cảm thấy quá hạnh phúc khi ở đây đến độ tôi nghĩ mình sắp khóc.
Nếu tôi chưa nói thế thì tôi muốn nói rằng tôi chẳng sợ gì ngoài đấng
Allah, và sự trừng phạt trong thế giới này theo tôi chẳng có nghĩa lý gì.
Điều tôi sợ là đủ loại giày vò mà những kẻ giết người như tôi sẽ phải chịu
đựng trong Ngày phán xét như được mô tả rõ ràng trong kinh Koran Vinh
quang, ở chương Al- Furqan ( 1 chẳng hạn. Trong những cổ thư, mà tôi
hiếm khi cầm đến, mỗi khi tôi thấy hình ảnh về sự trừng phạt này trong mọi
sắc thái và sự ác liệt của nó, gợi nhớ lại những cảnh đơn giản, hợp với trẻ
con, nhưng rất khủng khiếp về Hỏa ngục do các nhà tiểu họa Ẳ Rập cổ
minh họa trên những tấm da dê, hoặc, vì bất kỳ lý do gì những cảnh tra tấn
của ma quỷ do các họa sĩ bậc thầy Mông Cổ và Trung Hoa vẽ, tôi không thể
không vẽ những hình ảnh tương tự này và lưu ý đến tính lôgic của nó: "Câu
thứ ba mươi ba của chương Al-Isra 2 nói lên điều gì? Chẳng phải nó nói
rằng nếu không có lý do biện minh, người ta không được phép lấy đi sinh
mạng người khác mà việc giết kẻ đó bị Thượng đế ngăn cấm sao?" Vậy thì
đây: tên đê tiện mà tôi cho xuống Địa ngục không phải là một tín hữu, vốn
là loại người mà Thượng đế cấm giết, ngoài ra, tôi có lý do rất chính đáng
để đập nát sọ hắn.
Tên này đã vu cáo bọn chúng tôi, những người đang thực hiện cuốn sách
do Đức vua bí mật ra lệnh. Nếu tôi không làm hắn câm mồm, hắn sẽ tố cáo
Enishte Kính mến, tất cả nhà tiểu họa và cả Thầy Osman là những kẻ vô