?”
Cabrillo đưa phần còn lại của cái tẩu thuốc bị gãy lên. “Lũ con hoang
đó đã làm hỏng cái tẩu bằng cây tầm xuân bảnh nhất của tôi”.
“Còn may mắn chán, vì đó không phải là cái hộp sọ của cậu" .
Khi đã ngồi lên, Cabrillo nắm cánh tay Pitt. “Cậu đã giải quyết thật
tốt đẹp. Tôi những tưởng cậu đã mua cho mình một cỗ quan tài lúc đó rồi
chứ”.
“Chẳng ai báo cho cậu biết”, Pitt nói, vừa mỉm cười, “rằng tôi là một
gã bất khả xâm phạm à. Phần lớn là nhờ cái áo giáp chống đạn cậu đã đề
nghị tôi mặc đấy”.
“Chiếc tàu Cliengdo thế nào ?”
“Cho tới lúc này, nó đang nằm yên trong bùn trên đáy biển Trung
Hoa”.
“Có ai sống sót từ chiếc tàu khu trục không ?”
“Ông Hanley đã tăng tốc tối đa những động cơ lúc bỏ đi. Tôi không
nghĩ ông ấy có ý định quay trở lại nơi đó để tìm hiểu đâu".
“Chiếc tàu bị thiệt hại nhiều không ?” Cabrillo hỏi, đôi mắt bắt đầu
tập trung lại.
“Trông như nó bị núi sập đè trúng vậy. Không có bất kỳ chỗ nào hư
hỏng mà không mất vài tuần lễ để chữa lành đâu”.
“Số thương vong ?”
“Khoảng năm người, có thể sáu, kể cả cậu”, Pitt trả lời. “Không ai
chết hoặc bị thương bên dưới những boong tàu mà tôi biết”.
“Tôi muôn cám ơn cậu”, Cabrillo nói. Anh có thể nhận biết sự yếu ớt
của mình do bị mất máu và anh muốn được tiếp máu. “Cậu đã lừa được cả
tôi lẫn bọn Trung Hoa xâm nhập lên tàu với hai bàn tay giả đưa lên không
khí. Nếu cậu không lừa được chúng, tình hình có thể đã đảo ngược”.
“Chỉ là một mẹo vặt thôi mà”, Pitt nói, vừa siết chặt sợi dây ga-rô
cầm máu trên bắp chân Cabrillo.
“Thần kinh phải vững lắm mới dám băng qua boong tàu dưới làn
mưa đạn để sử dụng khẩu Oerlikon”.
Làm xong tất cả những gì anh có thể làm cho đến khi Cabrillo an toàn
được đưa tới bệnh viện trên tàu, Pitt ngồi lại và ngắm nhìn người chủ tịch
của chiếc tàu. “Tôi tin người ta gọi hiện tượng đó là chứng điên tạm thời”.
“Chưa hết”, Cabrillo nói giọng yếu ớt, “cậu đã cứu chiếc tàu và mọi
người trên đó”.