Cổ, một thứ hoạt động say sưa rộn rịp nhất như khi ra chiến trường. Hơn
nữa, họ coi như là một lối tập trận hàng ngày và kẻ địch khó truy nã như
thế mới thật là hấp dẫn.
Đối với dân du mục, chỗ ở thích hợp hơn hết là những vùng núi thấp có
triền thoai thoải phủ cỏ xanh và rừng cây lưa thưa, có ghềnh thác. Qua mùa
hạ, họ lánh đồng bằng cháy nắng, lùa thú lên cao lần lần tìm đồng cỏ xanh
tươi hơn; đó là mùa "đoàn trại chia ly", như họ nói. Mỗi bộ tộc đi tìm một
mục trường riêng cho mình, chiếm cứ ở đó một thời gian. Bầy súc vật là
nguồn sống của dân du mục. Nhưng thường nhật họ chỉ ăn những con thú
già, thú chết vì bệnh hoặc rủi ro. Nuôi thú cốt để lấy sữa làm koumiss (sữa
chua) phó mát (một thứ phó mát ngâm trong muối cứng như sắt), lấy da,
lấy lông làm nỉ. Phân thú là một thứ thông dụng trong việc đun nấu. Loại
thú lớn như trâu, bò, trâu yak, lạc đà… dùng cho việc kéo xe, tải đồ.
Mối quan tâm nhất của dân du mục là thức ăn của bầy gia súc. Cái lạnh
khốc liệt (-30 độ C) của mùa đông làm cho mọi hoạt động đều đình trệ; họ
lùa súc vật đi ẩn trú ở những chỗ ít gió rét nhưng vẫn để chúng ở ngoài trời
sống với những thức ăn dự trữ như cỏ khô. Trong một năm, bầy thú di
chuyển từ chỗ này sang chỗ khác từ mười đến mười hai lần. Lâu dần bầy
thú mất hết bản năng tự tồn, chỉ còn biết trông cậy vào sự chăm sóc của
người du mục.
Đời sống du mục qua bao thế hệ đã gây cho người Mông Cổ một vài ý thức
sơ đẳng về cách tổ chức một xã hội định cư như lập một đoàn trại trung
ương trên vùng đồng rộng, chung quanh có rừng để có thể đi hái trái, đào
củ làm lương thực hoặc đem đổi lấy những thức cần dùng với các bộ lạc
khác; hay việc tổ chức một đội quân có đại bản doanh để bảo vệ lãnh thổ.
Qua thế kỷ XII người Mông Cổ lại thoái bộ hơn thế kỷ thứ IX. Thời còn
thống trị vùng Orkhon, dân Thổ phồn đã truyền bá thuật trồng tỉa, nghề
nông đã bắt đầu phát triển. Đến lúc bị dân Kirghiz xâm chiếm, khoảng năm