của khu vườn, bên trong là ngai vàng với ba cầu thang, một dành
riêng cho [Oa Khoát Đài], một cho các phi tần của ông, và một dành
cho những người dâng ly và bày biện bàn.” Trước cung điện, Oa
Khoát Đài cho xây một chuỗi hồ “nơi các loài thủy cầm thường tụ
họp.” Ông thường xem cảnh săn bắn chúng rồi bắt đầu chè chén
say sưa. Vì ông thích thú rượu chè như vậy, ở trung tâm hoàng
cung là một tập hợp chum bằng vàng và bạc lớn tới nỗi ông được
cho là đã giữ lạc đà và voi ở gần đó, để “chúng chở các loại thức
uống khi có yến tiệc.”
Bên cạnh các cung điện cho bản thân và các thành viên Hoàng
tộc, Oa Khoát Đài cũng cho xây nhiều nơi thờ cúng cho những tín
đồ Phật giáo, Hồi giáo, Đạo giáo và Ki-tô giáo. Trong số này, những
người theo đạo Ki-tô có vẻ đã chiếm ưu thế trong triều đình Mông
Cổ, bởi Oa Khoát Đài, cũng như ba người anh em khác, đã kết hôn
với những phụ nữ theo đạo Ki-tô khi họ tiến đánh người Miệt Nhi
Khất và Nãi Man; một vài con cháu ông cũng theo đạo Ki-tô, đặc biệt
là Shiremun (tên Mông Cổ của Solomon), đứa cháu nội được ông
yêu quý. Một trong những lý do người Mông Cổ ưa chuộng đạo Ki-tô
có thể là bởi tên của chúa Jesus – Yesu – nghe giống từ chỉ số chín
trong tiếng Mông Cổ, con số linh thiêng của họ, cũng như tên của
Dã Tốc Cai (Yesugei), vị cha đẻ của cả triều đại. Song dù đạo Ki-tô
có vị trí cao như vậy, thành phố nhỏ Karakorum có lẽ là nơi có tư
tưởng mở và bao dung nhất về mặt tôn giáo trên thế giới vào thời
điểm đó. Chẳng còn nơi nào mà tín đồ của nhiều tôn giáo khác nhau
lại có thể bình an cùng hành đạo như vậy.