Các lời tường thuật sau này đưa ra con số lính Nga tại trận rất
khác nhau, nhưng nói chung có khoảng bốn tới tám vạn lính Nga, ít
nhất gấp đôi số quân Mông Cổ. Nhưng phần lớn lính Nga xuất thân
từ đồng ruộng và làng quê. Khi khỏe mạnh và được ăn uống đầy đủ,
họ là những người nông dân cường tráng và nhiều kinh nghiệm
trong những chiến dịch nhiều giai đoạn; song họ không phải là một
đội quân chuyên nghiệp, nhất là vào cuối mùa đông với chế độ ăn
thiếu thốn. Họ quen dùng liềm cắt cỏ khô hay quất roi thúc bò hơn là
sử dụng vũ khí chiến tranh. Thế nhưng được các vị chỉ huy bảo đảm
một thắng lợi dễ dàng, những người nông dân này nghe theo lệnh
dàn hàng sau lớp khiên theo cấp bậc. Vũ khí của họ là bất kỳ cái gì
họ tìm thấy hay sửa sang từ dụng cụ làm nông – những cây kiếm,
lao, chuỳ hay gậy tạm bợ. Đứng bên cạnh là một nhóm lính bắn
cung nhiều kinh nghiệm hơn, còn các vị tướng kiêu ngạo ngồi trên
lưng chiến mã phía sau quân đội của mình.
Quân Nga chuẩn bị tinh thần, đứng vai kề vai, dù họ không biết
quân địch sẽ tấn công như thế nào, nhưng họ quyết tâm không phá
hàng ngũ. Nhưng dường như lại chẳng có cuộc tấn công nào cả.
Thay vì ra trận, quân Mông Cổ bắt đầu ca hát và đánh trống, rồi đột
nhiên im lặng một cách kỳ quái. Vì hôm đó là một ngày xuân quang
đãng, quân Mông Cổ chọn cách Tấn công Im lặng, được điều khiển
và sắp xếp bằng cách vẫy cờ. Nhận được tín hiệu, lính bắn cung
trên ngựa sẽ im lặng tiến tới hàng ngũ quân Nga. Tiếng vó ngựa trên
nền đất vọng tới chân những người lính đang lo lắng chờ đợi phần
tồi tệ nhất của trận đánh. Nhưng hai bên không bao giờ giao chiến.