Dù bị chính quyền kiểm soát, người Mông Cổ đã thể hiện quyết
tâm không để mất những lời này nữa. Trong một khoảnh khắc ngắn
ngủi sự giải phóng của đời sống chính trị sau cái chết của Stalin
năm 1953 và việc Mông Cổ gia nhập Liên Hợp Quốc năm 1961 đã
khiến người Mông Cổ dũng cảm hơn, và cảm thấy được tự do tìm
lại lịch sử của mình. Năm 1962, nước này đã chuẩn bị một bộ tem
để kỷ niệm tám trăm năm ngày sinh của Thành Cát Tư Hãn. Tomor-
ochir, thành viên có vị trí cao thứ hai trong chính phủ, cho dựng một
tượng đài xi măng để đánh dấu nơi sinh của Thành Cát Tư Hãn ven
sông Onon, đồng thời tài trợ cho một cuộc hội thảo giữa các học giả
để đánh giá các mặt tốt và xấu của Đế chế Mông Cổ trong lịch sử.
Cả bộ tem và đường vẽ đơn giản trên tượng đài thể hiện hình ảnh
sulde đã mất của Thành Cát Tư Hãn, Dải cờ thiêng làm từ lông
ngựa đã dẫn ông đi chinh phạt và là nơi linh hồn ông nằm lại.
Thế nhưng, sau gần tám thế kỷ, ý nghĩa tình cảm của sulde với
người Mông Cổ và một số nhóm người họ đã chinh phục vẫn sâu
sắc tới mức người Nga coi hình ảnh của nó trên con tem là sự trở lại
của chủ nghĩa dân tộc và nguy cơ bạo động. Lo sợ rằng nước vệ
tinh của mình sẽ theo đuổi con đường giành độc lập, hay tệ hơn là
đứng về phía người hàng xóm còn lại của họ – Trung Hoa, cựu đồng
minh nay đã trở thành kẻ thù – Liên Xô đã đáp trả bằng một cơn
phẫn nộ phi lý. Tại Mông Cổ, chính quyền đàn áp bộ tem và các học
giả. Vì mắc tội phản nghịch là đã thể hiện cái các quan chức của
Đảng gọi là “xu hướng lý tưởng hóa vai trò của Thành Cát Tư Hãn,”
Tomor-ochir đã bị cách chức, giam cầm trong nước, và cuối cùng bị