đã nói trong cuốn sách bán chạy năm 1844 của ông, Vestiges of the
Natural History of Creation [Dấu tích lịch sử kiến tạo tự nhiên]. Ông
giải thích: “Những đặc tính nổi trội của các chủng tộc người chỉ đơn
giản là đại diện cho các giai đoạn phát triển của chủng tộc da trắng
tối ưu nhất.” Nếu so sánh với người da trắng, “người Mông Cổ là
một đứa trẻ sơ sinh mới ra đời.”
Những nhà thuyết học này nhanh chóng thấy rằng chủng tộc
Mongoloid có quan hệ gần gũi với đười ươi. Hai bên không chỉ
tương đồng về nét mặt, mà còn cả dáng điệu. Người châu Á cũng
như đười ươi đều ngồi khoanh chân trong tư thế “Mông Cổ” hay
“Đức Phật.” Dần dần, nhóm Mongoloid mở rộng ra, bao gồm cả thổ
dân châu Mỹ, người Eskimo, người “phía bắc Trung Hoa, nam Trung
Hoa, Tây Tạng, thổ dân nam Trung Hoa, Mông Cổ, vài nhóm người
, Triều Tiên, Nhật Bản, và người Á cổ
Một khi đã được đặt ra và được khoa học Tây phương chấp
nhận rộng rãi, hệ thống phân loại người Mongoloid gợi ra những lối
vận dụng mới. Dựa trên miêu tả cơ thể trẻ bị thiểu năng trí tuệ có
nét mặt châu Á, các nhà khoa học thời này thấy rằng chúng hẳn
cũng thuộc chủng tộc Mongoloid. Robert Chambers là người đầu
tiên ghi chép mối liên hệ giữa trẻ thiểu năng và “chủng tộc
Mongoloid” trong nghiên cứu của ông năm 1844. Ông cho rằng căn
bệnh có liên quan tới loạn luân: “Cha mẹ có quan hệ huyết thống
quá gần thường sinh ra con thuộc chủng tộc Mongoloid – tức là
những người sau khi trưởng thành vẫn là một dạng trẻ con.” Năm