chăn gia súc trên thảo nguyên, và là điển hình cho các đặc trưng
cực đoan nhất của cả hai nhóm này. Họ bấu víu vào phần đuôi
mỏng manh đã sờn của các sợi chỉ giao thương kết nối vùng lãnh
nguyên và thảo nguyên phương bắc với những cánh đồng nông
nghiệp và công xưởng phía nam. Hàng hóa tới phía bắc ít ỏi tới nỗi
người ta nói rằng với người Mông Cổ, ai sở hữu một cặp bàn đạp
yên ngựa bằng sắt được xem là vị chúa tể tối thượng.
Có những năm việc săn bắn không tốt, và vào mùa đông người
dân đói sớm, mà lại không có nguồn lâm sản để trao đổi. Vào những
năm đó, người Mông Cổ vẫn tổ chức các đội săn bắn. Song thay vì
đi về phía bắc để vào rừng săn thú vật, họ đi khắp thảo nguyên để
săn người. Nếu người Mông Cổ không có gì để buôn bán, họ cướp
bóc những người chăn gia súc họ tìm thấy trên thảo nguyên hay
trong các thung lũng hẻo lánh. Những kẻ tấn công áp dụng chiến
thuật tiếp cận nạn nhân tương tự như với thú vật, và từ dấu hiệu tấn
công đầu tiên, các nạn nhân thường bỏ chạy, để lại phần lớn gia
súc, đồ đạc trong nhà, và bất kỳ thứ gì khác kẻ tấn công muốn. Vì
mục tiêu tấn công là để giành được vật phẩm, những kẻ tấn công
thường chỉ cướp các ger và thu thập gia súc, chứ không đuổi theo
những người đang chạy trốn. Vì bọn cướp muốn của cải, thương
vong trong các tranh chấp kiểu này thường không cao. Phụ nữ trẻ bị
bắt cóc làm vợ, còn các bé trai thì trở thành nô lệ. Phụ nữ lớn tuổi
hơn và trẻ nhỏ thường được bỏ qua, và đàn ông ở độ tuổi đánh
nhau thường bỏ trốn trước tiên trên những con ngựa nhanh và khỏe