một và mang theo hết súc vật, gần như buộc hai người vợ goá và
bảy đứa con phải chết trong mùa đông.
Nhưng gia đình họ đã không chết. Bằng nỗ lực phi thường, Ha
Nguyệt Luân đã cứu sống họ – không sót một ai. Như Bí sử kể lại,
cô đã che tóc lại, gài váy lên, và chạy dọc sông bất kể ngày đêm để
nuôi năm đứa con thiếu ăn của mình. Cô tìm thấy hoa quả nhỏ, và
dùng nhánh cây bách xù để đào rễ cây cỏ mọc ven sông. Để giúp cả
nhà kiếm ăn, Thiết Mộc Chân chế ra tên gỗ với mũi tên làm bằng
xương được mài sắc để săn chuột trên thảo nguyên, và uốn cong
mũi kim khâu của mẹ làm lưỡi câu cá. Khi các cậu bé trưởng thành
hơn, chúng săn được con mồi lớn hơn. Theo lời nhà kể chuyện
người Ba Tư Juvaini, người đã tới Mông Cổ năm mươi năm sau và
là một trong những người đầu tiên viết về cuộc đời Thiết Mộc Chân,
gia đình ông mặc trang phục “làm từ da chó và chuột, và thức ăn
của họ là thịt của những con này và những thứ đã chết khác.” Dù có
thật sự chính xác hay không, lời miêu tả cũng đã cho thấy một cuộc
vật lộn cô độc và tuyệt vọng của những con người bị xã hội bỏ rơi
đang trên bờ vực chết đói, sống nửa giống các tộc khác quanh họ
nửa như động vật. Trên miền đất nơi đời sống luôn khắc nghiệt, họ
đã rơi xuống đáy của cuộc sống thảo nguyên.
Làm thế nào mà một đứa trẻ ngoài lề xã hội từ địa vị thấp kém
như vậy có thể trở thành vị Khắc hãn của Mông Cổ? Lật qua câu
chuyện về những năm tháng thành niên của Thiết Mộc Chân trong
Bí sử, ta tìm thấy những gợi ý cốt yếu về vai trò quan trọng của