người đi ra, người bạn ngủ gần bên cặp kè dẫn chàng đến quán cà phê đầu
tiên. Đến trước quầy hàng, anh ta dừng lại, đưa những ngón tay lạnh cóng
lên miệng thổi phù phù, giậm chân xuống đất, mắt sáng lên vì hy vọng.
“Bạn uống cà phê nhé? Lần này bạn trả tiền. Tôi không có tiền lẻ.”
Paul hy sinh vài xu đãi anh ta cà phê và bánh mì.
Anh ta tên là Jerry, đối với bạn thân là Jerry con lừa. Một cuộc đời tàn
lụi, anh ta thú nhận như thế. Thất nghiệp từ nhiều năm qua nhưng thạo đủ
mánh khóe, nên nghề lâu dài hiện nay là quơ tàn thuốc lá đem trộn lại, bán
được ba shilling sáu pence mỗi cân. Nhưng vào mùa mưa, không nhặt được
bao nhiêu, sáng nay anh ta có ý định thử đi làm bánh sandwich. Jerry rủ
Paul: “Bạn hãy đi với tôi. Ăn bận lành lặn như bạn chắc chắn sẽ được người
ta thâu nhận.”
Paul toan từ chối, nhưng lại đổi ý. Nghĩ cho cùng, tại sao không? Muốn
gặp mặt Castles, chàng cần phải giữ liên lạc với người bạn qua đêm. Hơn
nữa, chàng cũng cần phải kiếm sống. Paul đi theo anh về hướng Dukes
Row. Đến đầu một ngõ cụt trước một cái sân thảm hại, họ đứng nối đuôi
nhau sau đám người dài theo hàng rào, dưới tấm bảng hiệu cơ sở cứu trợ:
Công ty quảng cáo của khu Hành lang. Độ một giờ sau, cửa rào mở ra và
người ta cho hai mươi người đầu tiên vào, trong đó có Paul và Jerry. Trong
sân, tấm quảng cáo tô màu đỏ và vàng cho hí viện Palace đang chờ đợi họ.
Bắt chước những người kia. Paul tiến đến một tấm bảng, vác nó lên vai và
trở ra lề đường. Khi toán người đứng thành hàng xong, Paul bước theo chân
bạn mình.
Suốt ngày, toán người Sandwich
ấy đi ngược xuôi trên những con
đường đông người nhất của thành phố. Cái tấm bảng thật nặng và góc cạnh
cứa mạnh trên bắp thịt vai. Nhưng đến năm giờ chiều, họ trở về Dukes Row
và mỗi người được lãnh hai Shilling chín Pence.
Ra khỏi sân, Jerry bảo Paul: “Chúng ta đi ăn đi.” và tươi cười dẫn Paul
đến quán ăn rẻ tiền nhất.