Ngày đến, xám xịt và đầy sương mù, cùng lúc với tiếng ầm ầm của một
đoàn xe lửa chạy ngang qua cầu. Lạnh run, người thanh niên gắng gượng
đứng dậy và yếu ớt bước đi. Bụng đói cồn cào, mà túi lại trống rỗng. Không
có cả cái gì để mua nổi một mẩu bánh mì. Paul đi về phía khu Hành lang,
tới trước Công ty quảng cáo, thấy cửa rào đóng, chàng bèn đến nhà ga ở
đường Leonard. Suốt ngày Paul lang thang quanh nhà ga, tìm vác đồ mướn
cho hành khách - trong những lời rủa của các phu khuân vác “thứ thiệt” - và
kiếm được chín pen-ni không đủ để ăn tối và mướn giường ngủ. Trong một
quán cà phê công nhân, chàng gọi một miếng xúc xích nấu xúp, một thứ
thức ăn nấu không được chín và nhờn mỡ, rồi trở về dưới Gầm cầu.
Ngày hôm sau trời mưa. Không thể kiếm được việc gì để làm ở nhà ga
dưới cơn mưa dai dẳng, Paul đi thất thểu ngoài đường phố, tìm một nơi trú
mưa. Paul mệt mỏi rã rời, nhưng hình như trong thành phố, không có một
nơi nào chàng có thể ngồi nghỉ mà không phải trả tiền. Cuối cùng, Paul vào
một phòng bida. Trong đám khói thuốc mù mịt dưới ánh sáng của những
bóng đèn có chụp màu xanh lá cây, Paul tìm được một nơi trú ẩn. Nhưng
than ôi! Đôi mắt đờ đẫn của chàng chưa theo dõi hết một ván bida thì đã bị
đuổi đi.
Paul trở lại đường phố lạnh lẽo, và đi, đi mãi, đi không ngừng. Đi đến
đâu chàng không cần biết.
Gần xế chiều, chàng đến bờ một con kênh nước đen ngòm nơi có các
nhà máy và lò gốm. Người chủ một chiếc xà lan gọi chàng, ném một sợi
dây thừng bảo chàng buộc chặt vào bờ trong khi chiếc xà lan vượt qua một
cái cống ngăn điều khiển bằng tay. Trên xà lan, một người đàn bà trọng tuổi
đang chiên trứng với thịt nguội trong chảo. Có lẽ bà ta đoán biết sự cùng
túng của Paul. Bà ta đưa cho chàng một miếng bánh sandwich to, trước khi
chiếc xà lan tiếp tục di chuyển.
Tấm lòng tốt, cái nhìn thương hại của người đàn bà làm Paul đau đớn
xúc động đến độ chàng bỗng có ý muốn bỏ hết tất cả, và trở về nhà, tìm lại
một cuộc sống no ấm bình thường. Môi chàng vẫn còn run rẩy nhưng chàng