lời Hugh, mà “vì những điều cô đã chứng kiến trong nạn đói khủng khiếp
đến mức chúng đã lấy đi giọng nói của cô”.
Sau đó đến lượt Emma, nhưng cô không hề có hứng thú kể lại câu
chuyện của mình.
“Sao lại không?” Olive nì nèo. “Thôi nào, hãy kể về lúc chị khám phá ra
mình đặc biệt đi!”.
“Đó là một câu chuyện xưa rồi”, Emma lẩm bẩm, “và chẳng có ích gì.
Mà không phải tốt hơn chúng ta nên nghĩ về tương lai thay vì quá khứ
sao?”.
“Có người nổi cáu rồi kìa”, Olive nói.
Emma đứng dậy bỏ đi về phía cuối toa tàu, để không ai quấy rầy cô. Tôi
để một hay hai phút trôi qua để cô không cảm thấy bị săn lùng, rồi tới ngồi
xuống bên cạnh cô. Cô thấy tôi đến bèn giấu mình sau một tờ báo, giả bộ
đang đọc.
“Tớ không có hứng nói về nó”, cô nói từ sau tờ báo. “Đó là lý do vì
sao!”.
“Tớ có nói gì đâu”.
“Phải, nhưng rồi cậu sắp hỏi, vì thế tớ giúp cậu đỡ mất công”.
“Để cho công bằng”, tôi nói, “tớ sẽ kể cho cậu nghe một chuyện về tớ
trước”.
Emma nhìn qua phía trên tờ báo, hơi có vẻ tò mò. “Nhưng chẳng phải tớ
đã biết mọi thứ về cậu rồi sao?”.
“À”, tôi nói. “Không hẳn đâu”.
“Được rồi, vậy nói cho tớ biết ba điều về cậu mà tớ còn chưa biết. Và
làm ơn chỉ là những bí mật tối tăm thôi. Giờ thì khẩn trương lên!”.
Tôi cố lục lọi trong đầu tìm những điều lạ lùng đáng quan tâm về mình,
nhưng tôi chỉ nhớ ra được những thứ phiền toái. “Được rồi, một. Khi tớ còn
nhỏ, tớ thực sự nhạy cảm khi chứng kiến bạo lực trên tivi. Tớ đã không hiểu
chúng không phải là thực. Thậm chí chỉ cần một con chuột hoạt hình đấm
một con mèo hoạt hình là đủ làm tớ phát hoảng và khóc ầm lên”.