thấy đồng cảm: đó là tất cả những gì họ còn lại từ mái ấm của họ. Những
đứa trẻ biết nó đã mất không có nghĩa là họ biết từ giã nó thế nào.
Sau ba giờ chèo thuyền như những nô lệ khổ sai, khoảng cách đã làm
hòn đảo co nhỏ lại còn cỡ một bàn tay xòe ra. Trông nó chẳng còn gì tương
đồng với cái pháo đài bao quanh toàn vách đá cheo leo báo điềm gở mà tôi
trông thấy lần đầu tiên vài tuần trước; giờ đây, trông hòn đảo có vẻ mong
manh, một phiến đá đang đứng trước nguy cơ bị những con sóng cuốn
phăng đi.
“Nhìn xem!” Enoch đang ngồi thuyền bên cạnh chúng tôi chợt hét lên,
đứng bật dậy. “Nó đang biến mất!” Một màn sương mù ma quái bao trùm
lấy hòn đảo, che khuất nó khỏi tầm mắt, chúng tôi bèn ngừng chèo dõi theo
nó mờ dần.
“Hãy nói lời tạm biệt hòn đảo của chúng ta,” Emma nói, cô đứng lên và
bỏ mũ ra. “Có thể chúng ta sẽ không bao giờ thấy lại nó nữa.”
“Vĩnh biệt, Đảo,” Hugh nói. “Bạn đã thật tốt với chúng tôi.”
Horace đặt mái chèo của cậu ta xuống và vẫy tay. “Tạm biệt, Nhà. Tớ sẽ
nhớ tất cả các căn phòng cũng như khu vườn của cậu, nhưng chủ yếu là nhớ
cái giường của tớ.”
“Tạm biệt, Vòng,” Olive sụt sịt. “Cảm ơn bạn đã che chở bọn mình an
toàn suốt những năm qua.”
“Những năm tuyệt vời,” Bronwyn nói. “Những năm tuyệt nhất tờ từng
biết.”
Cả tôi cũng thầm tạm biệt với nơi đã thay đổi tôi mãi mãi - và cũng là
nơi, còn hơn bất cứ nấm mồ nào, sẽ mãi lưu giữ ký ức cũng như bí ẩn về
ông tôi. Ông và hòn đảo đó đã trở nên gắn bó đến độ không thể tách rời, và
giờ đây, khi cả hai đều đã biến mất, tôi tự hỏi liệu có bao giờ thực sự hiểu
được những gì đã xảy đến với mình không: tôi đã trở thành cái gì, đang trở
thành cái gì. Tôi đã tới hòn đảo để giải đáp bí ẩn của ông mình, và trong khi
làm điều đó, tôi lại khám phá ra bí ẩn về chính mình. Quan sát Cairnholm
biến mất cũng giống như chứng kiến chiếc chìa khóa duy nhất còn lại để
mở ra bí ẩn của tôi chìm dần dưới những ngọn sóng thăm thẳm mịt mù.