“Xin cảm ơn, phải, tớ biết thế mà”.
“Đợi đã, tớ không hiểu”, tôi nói. “Nhà thờ Thánh Paul là gì vậy?”.
“Đến tớ cũng biết”, Olive nói. “Nhà thờ Lớn!”. Rồi cô bé đi tới cuối con
hẻm, đưa tay chỉ lên một mái vòm lớn nhô cao lên ngoài xa.
“Đó là giáo đường lớn và tráng lệ nhất ở London”, Millard nói, “và nếu
tớ đoán không sai, đó cũng là nơi bầy bồ câu của cô Wren cư ngụ”.
“Hãy hy vọng là chúng có nhà”, Emma nói. “Và chúng có tin tốt cho
chúng ta. Gần đây chúng ta đã quá thiếu thứ đó rồi”.
***
Trong khi chúng tôi đi vòng vèo qua một mê cung những đường phố hẹp
về phía Nhà thờ Lớn, một sự im lặng ủ ê bao trùm lên chúng tôi. Suốt hồi
lâu không ai nói gì, chỉ còn lại tiếng giày chúng tôi giẫm lên vỉa hè và
những âm thanh của thành phố: máy bay, tiếng xe cộ đi lại ầm ì không ngớt,
những tiếng còi vang lên nối tiếp nhau trên đủ cung bậc xung quanh.
Càng đi xa nhà ga, chúng tôi càng thấy nhiều bằng chứng về những trận
bom đã giội xuống London. Mặt tiền các tòa nhà bị mảnh bom phá lỗ chỗ.
Những khung kính cửa sổ vỡ tan tành. Những đường phố lấp lánh rải đầy
mảnh kính vỡ. Bầu trời lấm chấm những khí cầu nhỏ màu bạc căng phồng
được buộc xuống đất bằng những sợi cáp dài. “Khí cầu phòng thủ”,Emma
nói khi cô thấy tôi nghển cổ nhìn về phía một quả. “Máy bay ném bom Đức
chạm phải các sợi cáp trong đêm và rơi xuống”.
Rồi chúng tôi tới trước một cảnh hủy diệt kỳ lạ đến mức tôi phải dừng lại
và há hốc miệng nhìn – không phải vì một sở thích ngắm nghía quái gở nào
đó, mà vì bộ óc của tôi không tài nào hiểu nổi nếu không xem xét kỹ hơn.
Một hố bom mở ra toang hoác suốt bề rộng của con phố như một cái miệng
khủng khiếp với hai hàm răng là vỉa hè vỡ nát. Ở một bên rìa, vụ nổ đã xé
toang bức tường mặt tiền của một tòa nhà song lại để phần bên trong gần
như còn nguyên vẹn. Trông như một ngôi nhà búp bê, tất cả các căn phòng
bên trong đều mở toang ra ngoài phố: phòng ăn với bàn ăn vẫn đang bày
sẵn cho một bữa ăn; những bức ảnh gia đình bị hất nghiêng trong một lối đi