“Cậu không nghe họ nói à?” Horace nói. “Cái Vòng đó đầy ắp những cái
bóng biết cắn - chỉ có thể là một thứ. Hồn rỗng!”.
“Nó đã từng đầy ắp chúng”, tôi nói. “Nhưng có thể là từ nhiều ngày
trước rồi”.
“Lần cuối cùng các cậu ở trong nhà của mình là từ khi nào?” Emma hỏi
hai cậu bé.
Vòng Thời Gian của họ đã bị tấn công, họ giải thích theo cách lạ lùng và
ngắt quãng của mình, nhưng hai người họ đã chạy thoát được vào các hầm
mộ và ẩn náu giữa những đống hài cốt. Họ không thể nói được đã bao lâu
rồi. Hai ngày chăng? Hay ba ngày? Họ đã mất hết khái niệm về thời gian
trong bóng tối dưới này.
“Ôi, hai cậu bé khốn khổ!” Bronwyn nói. “Các cậu đã phải chịu đựng
những nỗi kinh hoàng khủng khiếp biết chừng nào!”.
“Các cậu không thể ở đây mãi được”, Emma nói. “Các cậu sẽ già đi nếu
không sớm tìm tới được một Vòng Thời Gian khác. Chúng tớ có thể giúp
các cậu – nhưng trước hết chúng ta phải bắt được một con bồ câu đã”.
Hai cậu bé nhìn vào đôi mắt đảo loạn của nhau và có vẻ đang trao đổi mà
không nói ra lấy một lời. Họ đồng thanh nói, “Theo chúng tớ”.
Họ trượt từ trên đống xương xuống và bắt đầu đi xuống đường hầm.
Chúng tôi theo sau. Tôi không thể rời mắt khỏi họ: họ lạ lùng một cách
đáng kinh ngạc. Hai cậu bé luôn nắm lấy tay nhau, và cứ đi vài bước, họ lại
phát ra những âm thanh lọc tọc thật lớn bằng lưỡi của mình,
“Họ làm gì vậy?” tôi thì thầm.
“Tớ nghĩ đó là cách họ nhìn”, Millard nói. “Cũng giống như cách những
con dơi nhìn trong bóng tối. Âm thanh họ phát ra sẽ phản xạ lên các vật thể
rồi trở lại chỗ họ, tạo ra một bức tranh trong đầu họ”.
“Chúng tôi là những người định vị bằng tiếng vang”, Joel-và-Peter nói.
Có vẻ như họ cũng rất thính tai.
Lối đi rẽ nhánh, rồi lại rẽ nhánh lần nữa. Đến một chỗ tôi đột nhiên cảm
thấy áp lực trong tai mình và phải nuốt nước bọt để giải tỏa nó. Đó là lúc tôi