biết chúng tôi đã rời khỏi năm 1940 và bước vào một Vòng Thời Gian.
Cuối cùng chúng tôi đến đầu tận cùng, một bức tường chắn ngang với
những bậc đặt chân theo phương thẳng đứng đục vào trong tường. Joel-và-
Peter đứng dưới chân tường và chỉ lên một chấm ánh sáng ban ngày nhỏ xíu
phía trên đầu.
“Nhà của chúng tôi...” cậu bé lớn hơn nói.
“Ở trên kia”, cậu bé nhỏ hơn nói.
Và khi họ nói xong, họ lại rút lui vào trong bóng tối.
***
Các bậc đặt chân đều bám đầy rêu trơn tuột rất khó leo, và tôi buộc phải
leo thật chậm nếu không sẽ có nguy cơ bị ngã. Chúng tôi leo lên bức tường
để tới một khung cửa tròn vừa người chui lọt trên trần, ở đó chỉ có một tia
sáng chiếu xuống. Tôi luồn tay vào khe trống và đẩy qua bên, cánh cửa
trượt mở ra như một cửa sập máy ảnh, để lộ một đường ống tròn xây bằng
gạch vươn cao lên khoảng sáu đến chín mét tới một mảng trời hình tròn.
Tôi đang ở dưới đáy giả của một cái giếng giả.
Tôi nâng mình chui vào lòng giếng rồi leo lên. Đến nửa chừng tôi phải
dừng lai nghỉ ngơi, tựa lưng vào phía đối diện của lòng giếng. Khi cảm giác
bỏng rát trong các bó cơ đã dịu xuống, tôi leo nốt phần còn lại của quãng
đường, trèo lên khỏi miệng giếng và đáp xuống một đám cỏ.
Tôi đang ở trong sân một ngôi nhà trông có vẻ xập xệ. Bầu trời tuyền
một sắc vàng bệnh tật, nhưng không hề có khói bốc lên, cũng chẳng có
tiếng động cơ nào. Chúng tôi đang ở vào một thời kì xa xưa hơn, trước
chiến tranh - thậm chí là trước khi xuất hiện xe hơi. Không khí lạnh buốt, và
những bông tuyết la đà rơi xuống rồi tan ra dưới đất.
Emma là người tiếp theo leo lên khỏi giếng, rồi đến Horace. Emma đã
quyết định chỉ ba chúng tôi đi thám hiểm ngôi nhà. Chúng tôi không biết sẽ
tìm thấy điều gì trên này, và nếu cần khẩn trương rời đi, tốt nhất nên là một
nhóm nhỏ có thể di chuyển nhanh. Không ai bên dưới tranh cãi; những lời
Joel-và-Peter cảnh báo về máu và những bóng ma đã làm họ sợ chết khiếp.