Đám hồn rỗng đã bị bốc thành hơi.
“Tớ ổn cả,” tôi nói. “Tớ ổn cả.”
Ngoại trừ những vết sây sát và rách da thịt, cũng như những người còn
lại trong chúng tôi. Cả nhóm chúng tôi tập tễnh xúm lại và so sánh các vết
thương. Tất cả đều là những vết thương nhẹ. “Đây quả là một thứ phép
mầu,” Emma nói, lắc đầu không tin nổi.
Thậm chí thực tế này còn khó tin hơn khi chúng tôi nhận ra khắp nơi
quanh mình là đinh sắt và những mảnh bê tông, cùng các mảnh gỗ sắc như
dao, nhiều mảnh bị vụ nổ làm cắm sâu vào đất cả chục phân.
Enoch tập tễnh đi tới chỗ một chiếc ô tô đậu gần đó, các khung cửa kính
tan tành, khung xe bị mảnh mìn cắm vào chi chít đến nỗi trông giống như bị
một khẩu súng máy xả đạn vào. “Đáng lẽ bọn mình phải chết rồi,” cậu ta
ngỡ ngàng, đút ngón tay vào một trong những cái lỗ. “Tại sao bọn mình lại
không thủng lỗ chỗ nhỉ?”
Hugh nói, “Là cái áo của cậu, anh bạn,” rồi đi tới chỗ Enoch và nhổ một
cái đinh quần xuống từ lưng chiếc áo lên dính đầy đất cát của cậu ta.
“Và áo của cậu nữa,” Enoch nói, nhổ một mảnh kim loại cạnh sắc lởm
chởm ra từ áo của Hugh.
Thế rồi tất cả chúng tôi cùng kiểm tra lại áo len của mình. Găm vào mỗi
chiếc áo đều có những mảnh kính dài nhọn hoắt, những mảnh kim loại đáng
lẽ đã xuyên thấu qua người chúng tôi – nhưng lại không thể. Những chiếc
áo len đặc biệt ngứa ngáy, không vừa vặn của chúng tôi không kỵ lửa hay
kỵ nước, như cô bán lừa cao cổ đã đoán. Chúng chống đạn. Và chúng đã
cứu mạng chúng tôi.
“Tớ chưa bao giờ mơ mình lại nợ mạng sống một món trang phục kinh
khủng thế này,” Horace nói, mân mê chất len của chiếc áo giữa các ngón
tay. “Tớ không biết mình có thể dùng loại len này may một cái áo vest thay
cho thứ này được không.”
Sau đó Melina xuất hiện, con bồ câu đậu trên vai cô, bên cạnh cô là hai
anh em mù. Với khả năng cảm nhận như những chiếc máy dò sóng âm của
mình, hai cậu bé đã tìm thấy một bức tường thấp bằng bê tông cường lực –