Tôi bước đi dẫn đầu nhóm, cảm nhận xem có hồn rỗng hay không, song
con bồ câu mới là nhân vật thực sự dẫn đường cho chúng tôi, nó kéo mạnh
sợi dây buộc như một con chó săn lần theo hơi mồi. Chúng tôi rẽ trái khi
con chim bay sang trái, và sang phải khi nó ngoặt sang phải, ngoan ngoãn
như một bầy cừu, thậm chí cả khi làm thế đồng nghĩa với việc dò dẫm đi
theo những con phố lỗ chỗ hố bom khiến khúng tôi trật mắt cá hay ngổn
ngang mảnh vỡ của những tòa nhà bị phá tan tành, những đầu mũi sắt nhọn
lởm chởm của chúng hiện lên lờ mờ trong ánh lửa chập chờn lay động, chĩa
về phía cổ họng chúng tôi.
Trải qua những biến cố kinh hoàng của tối hôm đó, tôi còn vượt quá cả
cái ngưỡng kiệt sức. Đầu tôi ong ong thật lạ lùng. Đôi chân tôi kéo lê nhọc
nhằn. Tiếng bom nổ rầm rầm đã lặng xuống, những chiếc còi cuối cùng
cũng im hẳn, và tôi tự hỏi liệu có phải tất cả những âm thanh của ngày tận
thế đó đã giúp tôi tỉnh táo. Giờ đây, trong không trung mù mịt khói đầy ắp
những âm thanh nhẹ nhàng hơn: nước phun ra từ các đường ống vỡ, tiếng
tru rên rỉ của một con chó bị mắc kẹt, những giọng nói khản đặc than vãn
cầu cứu. Thỉnh thoảng những người đồng hành lại hiện ra từ bóng tối,
những thân hình trông như những hồn ma trốn thoát từ một thế giới nào đó
ở sâu bên dưới, đôi mắt mắt rực lên đầy sợ hãi và ngờ vực, cắp chặt dưới
cánh tay những món đồ vật khác nhau – máy thu thanh, đồ bạc khoắng
được, một cái hộp mạ vàng, một bình tro cốt. Người chết bê người chết trên
tay.
Chúng tôi tới chỗ một ngã ba đường thì dừng lại, con bồ câu đang cân
nhắc xem sang trái hay phải. Cô gái thì thầm cổ vũ, “Thôi nào, Winnie. Cô
bồ câu ngoan. Chỉ đường cho chúng ta đi.”
Enoch chen vào thì thầm, “Nếu mày không tìm thấy cô Wren, tao sẽ tự
tay xiên mày lên nướng.”
Con chim vụt lên không, nhao về bên trái.
Melina nhìn trừng trừng Enoch. “Cậu là đồ khốn,” cô nói.
“Quan trọng là kết quả,” cậu ta đáp.
Cuối cùng, chúng tôi tới một ga tàu điện ngầm. Con bồ câu dẫn chúng tôi
qua lối vào vòm cuốn tới một phòng vé, và tôi đang chực nói: Chúng ta sẽ