Thế rồi, từ đằng sau chúng tôi, một quầng sáng nữa xuất hiện – lần này
cùng với một luồng gió nóng bỏng và tiếng gầm như sấm động. “Tàu kìa!”
Emma lại la lên, và lần này thì đúng thật. Chúng tôi tựa mình áp sát vào các
vách tường trong khi đoàn tàu vùn vụt lao qua trong một cơn cuồng phong
của tiếng ồn, ánh sáng và khói phụt ra mù mịt. Trông nó giống một đoàn tàu
với đầu máy hơi nước thu nhỏ hơn là một đoàn tàu điện ngầm hiện đại.
Thậm chí còn có cả một toa dành cho nhân viên ở cuối đoàn tàu, tại đó một
người đàn ông có bộ râu đen rậm cầm một cây đèn lồng cháy leo lét trên tay
há hốc miệng kinh ngạc nhìn chúng tôi trong khi đoàn tàu rầm rầm lao đi
rồi biến mất sau khúc quanh kế tiếp.
Cái mũ lưỡi trai của Hugh đã bị thổi bay khỏi đầu cậu và bị xéo nát. Cậu
tới nhặt cái mũ lên, phát hiện ra nó đã rách tan, cậu giận dữ ném nó xuống.
“Tớ chả quan tâm đến cái Vòng này,” cậu ta nói. “Chúng ta mới chỉ ở đây
có mười giây mà nó đã tìm cách giết chúng ta rồi. Hãy làm những gì chúng
ta cần làm rồi xuốn xéo khỏi đây thôi.”
“Tớ không thể tán thành hơn,” Enoch nói.
Con bồ câu dẫn chúng tôi đi tiếp theo đường ray. Sau chừng mười phút,
nó dừng lại, kéo dây hướng về một thứ trông như bức tường trơn. Chúng tôi
không hiểu tại sao cho tới khi tôi nhìn lên và phát hiện thấy một cái cửa bị
ngụy trang một phần nằm nơi vách tường tiếp giáp trần đường hầm, ở trên
cao sáu mét. Vì dường như không còn cách nào khác để tới chỗ cái cửa,
Olive liền tháo giày ra và bay lên để quan sát gần hơn. “Trên cửa có một cái
khóa,” cô nói. “Một cái khóa mã số.”
Cũng có một cái lỗ vừa cỡ một con bồ câu được khoét qua góc dưới tấm
cửa, nhưng chẳng ích gì với chúng tôi – chúng tôi cần mã số.
“Có ý tưởng nào về mã số không?” Emma hỏi, hướng tới tất cả mọi
người.
Cô được đáp lại bằng những cái nhún vai và những ánh mắt ngơ ngác.
“Không,” Millard nói.
“Chúng ta sẽ phải đoán,” Emma nói.
“Biết đâu lại là sinh nhật tớ,” Enoch nói. “Thử ba – một – hai – chín –
hai xem.”