quãng thời gian đếm lùi đang lơ lửng treo trên đầu mình. Có lẽ việc bà ngủ
vào một thời điểm như lúc này cũng đủ là bằng chứng cho thấy bà đang
thay đổi. Cô Peregrine ngày trước hẳn đã vô cùng lo lắng.
Sau đó, dòng suy nghĩ của tôi trôi sang bố mẹ tôi, vẫn luôn như vậy khi
tôi kiểm soát được tâm trí mình. Tôi cố hình dung ra khuôn mặt họ lần cuối
cùng tôi nhìn thấy. Những mảnh ghép nhỏ gắn lại với nhau trong tâm trí tôi:
bộ râu ngắn lưa thưa đã mọc lên trên cằm bố tôi sau vài ngày trên đảo; hình
ảnh mẹ tôi mân mê nhẫn cưới một cách vô thức khi bố tôi nói quá lâu về
thứ gì đó bà không quan tâm; đôi mắt nhanh nhẹn của bố tôi, luôn dõi theo
đường chân trời trong cuộc tìm kiếm bất tận những con chim của ông.
Giờ đây đôi mắt đó đang dõi tìm tôi.
Khi màn đêm buông xuống, khu trại bừng lên nhộn nhịp quanh chúng
tôi. Đám người Digan trò chuyện, cười đùa, và khi một đám trẻ con chơi
một bài hát bằng những chiếc kèn co và đàn violon méo mó mòn vẹt, bọn
họ nhảy. Giữa các bài hát, một cậu con trai từ đám thiếu niên lén đi vòng ra
đằng sau cái chuồng nhốt chúng tôi, cầm trên tay một cái chai. “Cái này cho
người ốm,” cậu ta vừa nói vừa ngoái đầu bồn chồn nhìn ra sau canh chừng.
“Ai cơ?” tôi hỏi, cậu thiếu niên bèn hất hàm về phía Hugh, cậu này đang
nằm rũ trên sàn, co rúm lại vì ho, thật khéo quá. Cậu nhóc tuồn cái chai vào
qua các song sắt. Tôi mở nút chai, ngửi thử một cái, và thiếu chút nữa ngã
vật ra. Cái chai có mùi như nhựa thông trộn với phân ủ. “Cái gì thế này?”
tôi thốt lên.
“Tao chỉ biết là nó công hiệu.” Cậu ta lại ngó ra sau. “Được rồi, tao đã
làm một việc cho bọn mày. Giờ bọn mày nợ tao. Vậy hãy nói cho tao biết –
bọn mày đã phạm phải tội lỗi gì? Bọn mày là lũ trộm hả?” Sau đó, cậu ta hạ
giọng xuống và hỏi, “Hay bọn mày đã giết ai?”
“Cậu ta nói gì thế?” Bronwyn hỏi.
Chúng tôi chẳng giết ai cả, thiếu chút nữa tôi đã nói thế, nhưng rồi hình
ảnh thân người Golan lộn nhào rơi xuống một ghềnh đá lóe lên trong đầu
tôi, tôi bèn im lặng.
Emma đã lên tiếng thay đôi. “Chúng tôi chẳng giết ai cả!”