tụt dần. Ta lại thấy mệt, vật lộn với từng bước về phía trước. Kolya bước
chậm lại để ta theo kịp. Nếu có sốt ruột với ta thì anh ta cũng không thể
hiện ra ngoài.
Ta cúi đầu xuống để có thể dò dẫm từng bước chân một - trẹo mắt cá lúc
này coi như chết chắc - và ta nhìn thấy vết bánh xích trước Kolya. Ta túm
lấy ống tay áo để ngăn anh ta lại. Bọn ta đang ở rìa một vạt trống lớn trong
rừng. Quầng nắng hắt lên từ hàng thửa tuyết sáng đến nỗi ta phải lấy tay
che mắt. Mặt tuyết đã bị cày nát bởi hàng chục vệt xích xe tăng, như thể cả
một lữ đoàn xe tăng Panzer vừa đi qua. Ta không biết rõ các vệt xích như ta
biết về động cơ máy bay, không thể phân biệt một chiếc Sturmtiger của
Đức với một chiếc T-34 của Nga, nhưng ta biết đây không phải xe tăng của
bên mình. Nếu có ngần này xe bọc thép ở trong rừng thì chúng ta đã phá vỡ
vòng vây rồi.
Những đống màu xám và nâu nằm rải rác trên tuyết. Thoạt đầu ta tưởng
chúng là những chiếc áo khoác vứt đi, nhưng ta nhìn thấy ở một cái thì có
đuôi, một cái khác thì có bàn chân móng vuốt thò ra, và ta nhận ra chúng là
những con chó đã chết, ít nhất phải đến cả tá. Bọn ta nghe thấy một tiếng
tru khác và cuối cùng bọn ta cũng nhìn thấy con chó đang tru, một con chó
chăn cừu lông khoang đen trắng đang lết ra khỏi cánh đồng. Hai chân trước
của nó làm cái việc mà hai chân sau không làm được. Phía sau con chó bị
thương là một vệt máu bê bết dài hơn trăm mét, một nét sổ đỏ vạch ngang
tấm toan trắng.
“Đi nào,” Kolya vừa nói vừa bước vào trong cánh đồng trước khi ta kịp
ngăn anh ta lại. Những chiếc tăng đã đi khỏi, nhưng chúng vừa mới ở đây,
những vết xích còn in rõ trên tuyết, chưa bị gió xóa mờ đi. Quân Đức đang
ở gần, đông đảo, nhưng Kolya không bận tâm. Anh ta đã ở giữa vạt đất
trống, sải bước về phía con chó chăn cừu, và như mọi khi ta vội vàng đuổi
theo.
“Đừng có lại quá gần bất kỳ con nào,” anh ta bảo ta. Ta không biết tại
sao anh ta lại bảo ta thế. Anh ta lo ngại về bệnh tật hay sao? Hay anh ta
nghĩ một con chó sắp chết có thể sẽ cắn ta?