tốt ngủ say, lay cũng không tỉnh. Ta bỗng thấy thấp thoáng dưới bóng trăng
một chiếc thuyền con vun vút bơi đến và nghe có tiếng gọi rằng:
- Có phải Vương tử gặp tôi năm tháng trước đó không?
Ta mừng quá liền trả lời:
- Phải! Phải!
Một lát hai thuyền giáp mạn. Người thổi địch bảo mở mui thuyền,
cùng ta ngồi đối diện. Ta thấy người đó trạc hai mươi tuổi, tóc xõa chấm
vai, môi son mắt phượng, thoang thoảng có mùi hương chi lan. Người đó
đầu đội khăn vuông, mặc áo xanh, vận quần đỏ, ngang thắt lưng đeo một
ống địch bằng trúc. Trong thuyền bày một chiếc ghế nhỏ, trên trải chiếu
hoa. Ở bên cạnh có ngọn đèn xanh và một bầu rượu. Thoạt trông thấy ta,
chàng mỉm cười mà rằng:
- Ngài thử nghĩ cái thân đêm trước là thân nào? Cái thân đêm nay là
thân nào? Vương tử với ta, mỗi người một địa vị, mỗi người một sở thích.
Gặp nhau lần đầu chưa thổi được ba cung địch trên ghế hồ sàng (14), thực
đã phụ lòng tri âm. Vậy nên không dám ngại phiền, đúng hẹn mà đến đây.
Đoạn rút ống địch đeo ở lưng thổi cho ta nghe. Thổi bài Quan san, thổi
bài Chiết liễu, phảng phất như khúc Hải phong độc tọa, xúc động lòng
người lìa xa quê cũ, cách biệt phòng loan. Vụt chuyển sang khúc Đại hải ba
đào, dữ dội như dông tố, như sóng đổ ầm ầm, khiến cho người kinh hoàng
khủng khiếp. Thế rồi lại dào dạt mênh mang, như muốn cho ta biết cái cảnh
rũ áo chắp tay, nghĩ sao tìm cho được người bề tôi vun vén giúp mình. Sau
cùng tiếng địch du dương êm dịu, điệu thưa tiếng chậm, tản vào làn gió, là
là trên mặt nước, mơ màng như trông thấy cảnh chim bay cá lượn trong hồ,
hoa thơm cỏ lạ hầu như chìm đắm trong hơi đầm ấm của tiếng địch. Có
khác gì như cái cảnh thanh danh đầy rẫy ở trong nước, tỏa ra khắp miền
mọi rợ không đâu không được đội ân quang? (15)