(7)Vũ Văn Uyên: công thần đời Lê trung hưng, có công phò Lê chống
Mạc dưới triều Lê Chiêu Tông (1516-1522), được cử làm Tuyên Quang Đô
đốc binh sự. Ông là anh ruột của Vũ Văn Mật.
(8)Đổng, Giả: tức Đổng Trọng Thư và Giả Nghị, hai nhà đạo nho đời
Hán. "Đặt Đổng Giả vào việc binh" ý nói Chu Sinh là một nhà nho thần nay
cử đi đánh giặc.
(9)Tôn, Ngô: tức Tôn Tẫn tướng nước Tề và Ngô Khởi tướng nước
Sở, những nhà quân sự giỏi đời Chiến quốc. "Bàn Tôn Ngô" ý nói bàn việc
quân.
Bấy giờ Sinh bèn đeo ấn ngư phù, cầm cờ vũ tiết, tinh kỳ đổi sắc, quân
lính ngậm tăm, lặn lội suối ngàn, xông pha lam chướng, đi đúng nửa tháng
thì đến địa phận châu Lục An. Khi gần tới trại giặc, chợt gặp một con suối
lớn, không thuyền không thể vượt qua được. Sinh truyền lệnh hạ trại và cho
tìm thổ dân đến hỏi về tình hình hư thực của địch và đường lối xa gần mọi
nẻo như thế nào?
Thổ dân đáp:
- Suối trước mặt gọi là suối Hồ Thủy. Rẽ suối đi về phía bên phải, chỉ
một ngày là đến trại giặc. Nếu đi bộ theo phía Đông thì trong một ngày
cũng có thể đến nơi. Còn một cách nữa là: bên kia suối này có một trái núi
gọi là Hoa Điệp, nếu tướng quân vượt suối qua núi ấy mà tiến thẳng lên, thì
chỉ trong nửa ngày là đến. Nhưng phải chặt cây, mở lối thì mới tiến quân
được.
Chu Sinh lại hỏi:
- Chu vi núi ấy chừng bao nhiêu dặm?
Thổ dân trả lời: