Từ đó ta có thể thấy được cái loạn của quân nhà Tần, chỉ có Mộ Dung Thùy
được vẹn toàn, thì rõ ràng là Kiên đã bị Thùy phá hoại.
Khi đã bị người hại mà còn mong thắng địch thì đó chẳng phải là một việc
khó hay sao?”
Thái Tông nói: "Tôn Tử cho rằng người nhiều mưu tính thắng kẻ ít mưu
tinh, nên có thể biết kẻ ít mưu tính thắng hạng không mưu tính. Mọi việc đều
như thế cả".
Thái Tông hỏi: "Thiên hạ truyền rằng Binh pháp của Hoàng đế là Ác Kị Văn
hay còn gọi là Ác Cơ Văn nghĩa là gì?"
Lí Tĩnh đáp: "Chữ kì đọc là cơ, nên sau truyền lại là cơ, nhưng cũng cùng
một nghĩa. Xét theo từ ngữ nói rằng bôn làm chính, bốn làm kì, dư kì để nắm
lấy cơ (dư kì là số lẻ) nên cũng gọi là cơ.
Thần nghĩ rằng việc binh không có gì không phải là cơ, đâu phải chỉ nói đến
chữ nắm mà thôi, nên gọi là dư kì thì đúng hơn.
Thường chính binh thì do vua điều khiển, kì binh thì do tướng tự suất.
Binh pháp viết: “Lệnh được thi hành mà dạy dân thì dân phục”, dạy là do
vua điều khiển.
Lại viết: “Việc binh không thể nói trước được, có khi không cần theo lệnh
vua”. Đấy là do tướng tự xuất.
Nếu tướng chỉ biết dùng chính, mà không biết dùng kì, là tướng chuyên về
phòng thủ. Chỉ dùng kì mà không biết dùng chính là tướng chuyên về chiến
đấu.
Dùng kì hay dùng chính đều là hàng phò tá đắc lực của quốc gia.
Cho nên nắm lấy cơ hay nắm lấy kì vốn không phải là hia phép, chỉ là do
học giả thông dùng mà thôi”.
Thái Tông hỏi: “Số trận có 9, chính giữa là số lẻ, do đại tướng nắm giữ Bốn
phương tám hướng đều lấy đó làm chuẩn. Giữa trận còn có trận, giữa đội có
đội. Lấy mặt trước làm mặt sau, lấy mặt sau làm mặt trước. Tiến không quá
nhanh, lui không vội vã, bốn phương là đầu, tám hướng là đuôi, lấy chỗ chạm
địch làm đầu. Địch xông vào giữa, thì hai đầu đều đến cứu. Số bắt đầu là 8.
Như thế có nghĩa là gì?”
Lí Tĩnh đáp: “Gia Cát Lượng dùng đá xếp ngang dọc, bay ra ghép bát hành
phương trận, tức là trận đồ này.