Hai chị em mặt mũi khá giống nhau, đều là ngăm ngăm đen, mặt mày
thanh tú, nhưng khí chất lại chênh lệch khác xa. Thường Yến cùng lắm là
kiểu con gái cưng nhà thường thường, khoảng chừng vì mấy năm sống ở
vùng nông thôn ngoại thành nên vẫn còn mang theo vài phần hương đồng
gió nội, nhưng Thường Niên lại là dáng vẻ chữ nghĩa lỗi lạc, ăn nói rõ ràng
rành mạch, cử chỉ tự nhiên thành thạo, không có chút nào vẻ gò bó của con
nhà bình dân gặp nhà phú quý.
Mọi người ngồi xuống nói chuyện, ngay cả hai chị nhà họ Thường cũng
bưng ghế con ra ngồi.
Ba mẹ con Hồ thị sau khi ngồi xuống, bèn không nhịn được quan sát bài
trí khắp nơi trong sảnh, nhất là Thường Hồ thị, chỉ cảm thấy trong sảnh bày
biện trang nhã, vô cùng quý báu nhưng lại lộ vẻ thanh tao sâu sắc.
Phía trước là chiếc bình dương chi bạch ngọc, thân bình sạch sẽ không tì
vết, chỉ đơn giản là đặt trong một ô của giá bảo vật, hai bên đặt ghế con
khắc hoa từ gỗ tử đàn, sắc gỗ sẫm trầm, bóng loáng phát sáng, thím ấy
không nhịn được lấy tay vuốt rồi ngồi xuống ghế, không ngừng khen ngợi:
“Nơi này của phu nhân quả thực là quá tốt, tôi cứ ngỡ đến nơi phủ tiên, ái
chà chà, nhìn cái bồn trang trí này … Ấy, chớ không phải làm từ ngọc thạch
chứ, còn cái chiếu trúc mát rượi này nữa, đây là bằng loại trúc gì thế…”
Lời nói và hành động của phụ nhân đượm hơi chợ búa, chẳng có thể diện
gì, Thường ma ma ở một bên nhíu nhíu mày, liếc xéo con dâu một cái, nhịn
không mở miệng, lại nhìn Minh Lan, nàng cũng chẳng lộ vẻ gì là coi
thường hay mất kiên nhẫn, nhưng cũng không đặc biệt có vẻ lấy lòng mình,
chỉ cười mỉm có hứng, tựa như lời Thường Hồ thị nói rất là thú vị.
“Tôi cũng chẳng rành.” Minh lan cố gắng nhớ lại, “Hình như là từ trúc,
chẻ cây trúc cao thành từng phiến, chỉ chọn phiến trúc ở ngọn mảnh nhất
mềm nhất, sắp các mảnh rồi đan sơ lại, sau lại dùng dá trắng mài, mài hơn
một ngàn lần, mài đến độ siêu mỏng, rồi mới bện thành như vậy.” Như vậy