thuộc lòng, thậm chí cả hai quyển tiếng Pháp và một quyển tiếng Đức mà
cô rất hay đọc để khỏi quên.
Quyển tiếng Pháp là một tập thơ của Muyt-xê
vị linh mục dạo trước. Một lần cô đang cầm chính tập thơ ấy trong tay thì
người khách già đáng mến, ông thầy lang ở cối xay, bước vào hiệu.
- Cháu đang đọc gì thế, cô bé? - Ông hỏi, cũng chỉ thuận miệng.
- Thơ ạ, những bài thơ rất hay... Thơ. Nhưng bằng tiếng Pháp.
- Tiếng Pháp à?...
- Vâng, thưa bác. Thơ của Muyt-xê.
Thầy lang xoay quyển sách về phía mình, cúi xuống và Ma-rư-sia cảm
thấy ông đang cố đọc. Môi ông mấp máy, nhưng chỉ lát sau, ông thẳng lưng
dậy.
Mặt ông tái nhợt, mắt ông như dại đi.
- Bác làm sao thế, bác An-tô-ni? - Cô gái ngạc nhiên và hơi hốt hoảng
hỏi.
- Không, không việc gì... - Ông lắc đầu, hai tay ôm chặt thái dương.
- Bác ngồi xuống nào, cô gái chạy từ sau quầy ra, đẩy đến cho ông
chiếc ghế. - Hôm nay bức quá, chắc bác bị mệt.
- Không, cháu cứ yên tâm. Bác đỡ rồi.
- Ơn Chúa, cháu sợ quá... Còn nếu nói về quyển sách kia, thì bác nghe
này, ngôn ngữ mới tuyệt diệu làm sao. Cháu cứ nghĩ rằng không cần phải
hiểu nghĩa cũng vận cảm nhận được vẻ đẹp của nó, nhất là thi ca.
Cô lật vài trang và cất giọng đọc. Giá như cô rời mắt khỏi trang sách
lấy một phút thôi, cô sẽ thấy rằng đang có chuyện gì đó không lành xảy ra
với ông An-tô-ni Kô-si-ba. Nhưng cô đang đọc cho bản thân mình. Cô
thích thú bởi vẻ trơn tru và trầm bổng của các khổ thơ, sự tinh tế của vần
điệu và nội dung đầy cảm xúc của thi sỹ, đang khóc than cho nỗi tuyệt
vọng của hai trái tim bị số phận trớ trêu mù quáng chia cắt vô phương cứu