lên ngọn, làm hiện ra như trong một phép màu từ khoảng trống không hình
thù khổng lồ của những cây tống quả sủ phủ đầy những nhũ băng tuyết
bám, những chiếc chùy màu đen của cây thùy liễu tua tủa cành mảnh, và
cuối cùng là những mái nhà nhọn hoắt của khu điền trang ông lão Prô-cốp
với những vỏ băng treo trên những tầng mái.
Tuyết đã ngừng rơi và ngay từ ngoài xa người tài xế đã nhìn thấy chiếc
xe trượt của Lu-đơ-vi-kốp đỗ trước cối xay.
- Ngựa của ta đang đứng trước cối xay, - bác nói, không ngoảnh đầu
lại.
- Ơn Chúa rằng hai đứa vẫn còn ở đây, - cả hai vợ chồng ông Trưn-xki
đều nghĩ bụng.
Ánh đèn pha gọi người xà ích bước ra khỏi nhà. Sau khi đã phủ chăn
che cho ngựa, anh này đang sưởi ấm bên bếp lò lửa, cùng với cả ông lão
Mien-nhich, người thấy có bổn phận phải thân ra đón ông bà Lu-đơ-vi-kốp.
- Con trai ông bà, thưa ông chủ, - ông nói, - đang ở trong nhà ngang,
chỗ cô Ma-rư-sia. Ông bà cho phép, tôi xin đưa đường.
- Cảm ơn ông, ông Prô-cốp, - ông Trưn-xki đáp, rồi khoác tay phu
nhân E-lê-ô-no-ra, ông thì thào: - E-lu, mình hãy nhớ nhé, muốn thu phục
được trái tim, phải phô cả trái tim mình ra đấy.
- Tôi hiểu, người bạn tốt của tôi ạ, bà xiết chặt cánh tay ông. - Ông
đừng lo.
Bà đã tự chiến thắng mình, tận đáy sâu trong tâm hồn bà đã thừa nhận
cái điều mà cách đây chưa lâu bà vẫn coi là một chuyện nhục nhã. Lần thứ
hai trong đời, số phận đã buộc bà phải bước qua cái ngưỡng cửa ấy. Một vị
thần định mệnh nào đó lại xoay bánh xe đời, nó dừng lại đúng vào một giây
phút đầy đe dọa, giây phút của lo lắng và phấp phỏng, ngay trước túp nhà
có những chiếc cửa sổ nhỏ vuông vức kia.
Nghe tiếng gõ cửa, Lê-sếch đáp lại bằng giọng mạnh mẽ và thậm chí
có vẻ đầy thách thức: