nghĩa là, trong một thời gian ngắn, mọi người dân trong cùng địa phương
đều tiếp xúc với mầm bệnh và hoặc đã chết hoặc phục hồi hoàn toàn. Khả
năng miễn dịch suốt đời của những người sống sót có nghĩa là không có
một người nào trong quần thể đó có thể mắc bệnh nữa cho đến vài năm sau
khi những đứa trẻ chưa từng tiếp xúc với bệnh được sinh ra. Giới hạn của
bệnh trong loài người có nghĩa là động vật hoặc đất đai không thể nuôi
mầm bệnh - chúng sẽ chết trong địa phương đó và không thể bùng phát lại
cho đến khi có một trận dịch khác lây lan từ một nơi xa. Tất cả những tính
chất này kết hợp lại cho thấy các bệnh dịch này chỉ giới hạn trong những
quần thể lớn, đủ nhiều để căn bệnh có thể tự duy trì trong quần thể bằng
cách di chuyển liên tục từ vùng này sang vùng khác, mầm bệnh bị triệt ở
địa phương này nhưng vẫn còn tồn tại trong một vùng dân số ở xa hơn. Đối
với bệnh sởi, quy mô dân số tối thiểu cần thiết là vài trăm nghìn người. Do
đó, những căn bệnh này có thể được tóm tắt là "bệnh truyền nhiễm đám
đông miễn dịch cấp tính của con người", hoặc ngắn hơn nữa là bệnh đám
đông.
Các bệnh đám đông không thể xuất hiện trước khi nền nông nghiệp bắt đầu
khoảng 11.000 năm trước đây. Chỉ với tình trạng dân số bùng nổ do nền
nông nghiệp phát triển, quần thể người mới đạt được số lượng cần thiết để
duy trì các căn bệnh đám đông này. Việc phát triển nông nghiệp cho phép
những người du mục sống bằng cách săn bắt - hái lượm đến định cư tại
những ngôi làng đông đúc và thường là mất vệ sinh, kết nối bằng cách giao
thương với những làng khác, tạo điều kiện lý tưởng để vi khuẩn truyền
bệnh lây lan nhanh chóng. Những nghiên cứu sinh học phân tử gần đây đã
chứng minh rằng các vi khuẩn gây ra nhiều và có lẽ là hầu hết các bệnh
đám đông chỉ giới hạn trong loài người ngày nay có nguồn gốc từ những
căn bệnh đám đông của gia súc mà chúng ta thường xuyên tiếp xúc như lợn
và trâu bò, đây là điều kiện lý tưởng để vi khuẩn lây từ động vật sang
người, khi động vật bắt đầu được thuần hóa khoảng 11.000 năm trước đây.